CHƯƠNG
9: 48 QUỐC GIA ĐỘC LẬP Ở CHÂU Á.
48 quốc gia
độc lập được chia làm 6 khu vực: Khu vực Tây Nam Á: 19 quốc gia. Khu vực Nam Á:
7 quốc gia. Khu vực Đông Nam Á: 11 quốc gia. Khu vực Đông Á: 5 quốc gia. Khu
vực Bắc Á: thuộc lãnh thổ Liên bang Nga. Và khu vực Trung Á: 6 quốc gia.
I. 19 Quốc gia khu
vực Tây Nam Á.
19 quốc gia
khu vực Tây Nam Á chiếm 7.125.495 km2 diện tích đất,và 332.108.000
cư dân. Quốc gia lớn nhất là Saudi Arabia chiếm 2.149.690 km2 và quốc gia nhỏ
nhất là Bahrain chỉ có 741 km2. Chỉ có 1 nước trên 70 triệu cư dân là Turkey,
có 3 nước dưới 1 triệu người là Cyprus, Bahrain, Qatar. Ngoại trừ Isarel có
trên 90% cư dân theo đạo Do Thái, và 3 nước Georgia, Armenia, Cyprus trên 75%
là tín đồ Chính thống giáo. Tất cả 15 nước còn lại trong khu vực có từ 75% đến
100% cư dân theo Hồi giáo. 15 nước này cũng có nhiều tên gọi khác nhau về thể
chế chính trị. Chẳng hạn, Oman gọi là vua Hồi. Jordan, Bahrain, Saudi Arabia
cũng gọi là vua, nhưng vua theo chế độ Quân chủ. Các nước còn lại thì gọi là
Cộng hòa Ả rập, Cộng hòa Hồi giáo hoặc Cộng hòa. Và hầu hết nguyên thủ quốc gia
đều do thủ lĩnh Hồi giáo nắm giữ, có khi còn kiêm thêm chức Thủ tướng chính
phủ. 19 quốc gia trong khu vực gồm: Turkey, Georgia, Armenia, Azerbaijan,
Cyprus, Syria, Lebanon, Israel, Jordan, Iraq, Iran, Afghanistan, Saudi Arabia,
Kuwait, Bahrain, Qatar, United Arabia Emirate, Oman, và Yemen.
1. TURKEY - REPUBLIC OF TURKEY (THỔ NHĨ KỲ).
A. Tiến trình phát triển.
Cư dân Thổ
Nhĩ Kỳ (Turkey) thời Cổ đại là một trong các bộ tộc đầu tiên phát triển nông
nghiệp của thế giới. Cũng như các nền văn minh Hittle, Phrygian, và Lydian, văn
minh Thổ Nhĩ Kỳ phát triển rực rỡ ở Asiatic, Thổ Nhĩ Kỳ (Asia Minor), từng đóng
góp nhiều cho nền văn minh Hy Lạp (Greek Civilization). Đế quốc La Mã chiếm Thổ
Nhĩ Kỳ từ thế kỷ thứ 5 Sau công nguyên (SCN). Constantinope (nay là Istanbul)
trở thành thủ đô của đế quốc Byzantine hơn 1000 năm. Constantinope bị Ottoman-Thổ Nhĩ Kỳ chiếm năm
1453 và duy trì cho đến sau đệ I thế chiến. Đế quốc Ottoman thống trị một vùng
rộng lớn nơi bây giờ là Syria, Lebanon, Iraq, Jordan, Israel, Saudi Arabia, Yemen và các hải đảo trong vùng
biển Aegean. Đế quốc Ottoman gia nhập với Đức và Liên minh Hung-Áo trong đệ I
thế chiến.
Sự bại trận của khối Liên minh này khiến đế quốc Ottoman bị xoá sổ, và nhiều vùng đất của đế quốc rơi vào tay các vua Hồi giáo.Cộng hoà Thổ Nhĩ Kỳ được thành lập năm 1923 vị Tổng thống đầu tiên là Mustafa Kemal sau đổi thành Kemal Ataturk. Ataturk lãnh đạo Thổ Nhĩ Kỳ cho đến khi ông ta chết năm 1938. Vua Hồi (Caliphate) không được thừa nhận ở Thổ Nhĩ Kỳ năm 1924. Các cuộc xung đột kéo dài với Hy Lạp (Greece) trên đảo Cyprus, Thổ Nhỉ Kỳ mất vùng bờ biển phía nam. Năm 1974, sau khi các sĩ quan Hy Lạp lật đổ chính quyền Cyprus như một bước để tiến tới thống nhất với Hy Lạp. Thổ Nhĩ Kỳ đánh chiếm đảo và thành lập một chính quyền mới cho Cyprus với các đường ranh giới rõ ràng giữa Cyprus-Hy Lạp và Cyprus-Thổ Nhĩ Kỳ. Để chống lại nỗ lực này, Hoa Kỳ cắt giảm viện trợ quân sự cho Thổ Nhĩ Kỳ năm 1975.
Đáp trả Thổ Nhĩ Kỳ không cho Mỹ sử dụng các căn cứ quân sự trên đất Thổ. Viện trợ quân sự Mỹ tái lập năm 1978, và căn cứ quân sự Hoa Kỳ hoạt động trở lại năm 1980. Tình trạng căng thẳng về sắc tộc, tôn giáo, hoạt động của cánh tả, và cánh hữu cực đoan đã tạo nên các cuộc bạo loạn thường xuyên ở Thổ Nhĩ Kỳ. Quân đội nhân cơ hội đó chiếm quyền năm 1978 đến năm 1984. Thổ Nhĩ Kỳ là một thành viên của lực lượng Liên minh đánh đuổi Iraq ra khỏi Kuwait năm 1991. Hậu quả của cuộc đánh đuổi nầy là hàng triệu người Kurd sống ở biên giới chạy sang Thổ Nhĩ Kỳ trốn thoát quân đội Iraq. Thổ Nhĩ Kỳ còn phải đánh nhau với người Kurd ly khai ở vùng biên giới phía bắc gây thương vong nặng nề cho cả du kích và chính phủ. Lực lượng ly khai Kurd đòi thành lập một quốc gia độc lập.
Ngày 24/6/1993, người Kurd hiếu chiến đồng loạt tấn công các viên chức ngoại giao Thổ Nhĩ Kỳ tại 25 thành phố ở Tây Âu. Ngày 5/7/1993, bà Tansu Ciller người phụ nữ đầu tiên của Thổ Nhĩ Kỳ trở thành Thủ tướng. Đảng Phúc lợi xã hội (Welfare Party), một tổ chức Hồi giáo đạt tới sự vững mạnh trong thập niên 1990, nhưng vẫn không đủ tỷ số để thành lập chính quyền. Cho đến tháng 6 năm 1996, nhờ liên minh với đảng Path công lý của Ciller mới thành lập được chính phủ. Chính quyền Hồi giáo từ nhiệm ngày 18/6/1997, do sức ép của quân đội. Liên hiệp Âu Châu từ chối đơn xin gia nhập của Thổ Nhĩ Kỳ ngày 12/12/1997. Quân đội gia tăng các cuộc hành quân chống lại lực lượng Hồi giáo cực đoan năm 1998. Lãnh đạo tổ chức bạo loạn người Kurk Abdullah Ocalan bị bắt ngày 15/2/1999 về tội khủng bố.
Ngày 29/6/1999, Ocalan bị tuyên án tử hình bởi một tòa án an ninh quốc gia. Ngày 5/8, Tổ chức người Kurk của ông ta tuyên bố rằng họ sẽ từ bỏ bạo loạn vũ trang. Một trận động đất phía Tây bắc Thổ Nhĩ Kỳ ngày 17/8, làm chết trên 17.000 và nhiều ngàn người bi thương. Ngày 12/11, một trận địa chấn khác xẫy ra gần đó nơi có 675 cư dân sinh sống. Ngày 6/12/2000, Quỹ Tiền tệ Thế giới (IMF) công bố sẽ cho Thổ Nhĩ Kỳ vay 7 tỷ USD để đối phó khẩn cấp với cuộc khủng hoảng tài chánh nghiêm trọng tại nước này. Ngày 3/8/2002, Quốc hội thông qua luật bải bỏ án phạt tử hình, và bản án tử hình Ocalan được giảm xuống còn tù chung thân. Với một Liên minh cầm quyền manh mún, Thủ tướng Bulent Ecevit miễn cưỡng đồng ý cho tổ chức tuyển cử vào ngày 3/11/2002. Ông ta chỉ cầm quyền một nhiệm kỳ 18 tháng.
Đảng Công lý và Phát triển (AKP) của một nhóm Hồi giáo do Recep Tayyip Erdogan lảnh đạo chiếm đa số trong cuộc bầu cử Quốc hội và trở thành Thủ tướng. Tháng 3-4/2003, khi Hoa Kỳ lảnh đạo Liên quân xâm lăng Iraq, Thổ Nhỉ Kỳ không cho phép Liên quân đổ bộ lên đất Thổ để từ đó đánh chiếm phía vào Iraq. Ngày 15-20/11/2003, nhóm Hồi giáo cực đoan bằng các vụ đánh bom tự sát giết chết 58 người, và làm bị thương 750 người tại hai thánh đường Hồi giáo, lảnh sự quán Anh, và một chi nhánh ngân hàng, tất cả đều ở Istanbul. Trong cuộc bầu cử Quốc hội ngày 22/7/2007, đảng (AKP) đương quyền dẫn đầu với 351 ghế, đảng Cộng hòa Nhân dân đối lập (CHP) 112 ghế. Bất chấp sự phản đối của quân đội và những người thế tục, ngày 28/8/2007, Quốc hội đã bầu (vòng 3) Abdullahb Gul một người Hồi giáo làm Tống thống.
Sự bại trận của khối Liên minh này khiến đế quốc Ottoman bị xoá sổ, và nhiều vùng đất của đế quốc rơi vào tay các vua Hồi giáo.Cộng hoà Thổ Nhĩ Kỳ được thành lập năm 1923 vị Tổng thống đầu tiên là Mustafa Kemal sau đổi thành Kemal Ataturk. Ataturk lãnh đạo Thổ Nhĩ Kỳ cho đến khi ông ta chết năm 1938. Vua Hồi (Caliphate) không được thừa nhận ở Thổ Nhĩ Kỳ năm 1924. Các cuộc xung đột kéo dài với Hy Lạp (Greece) trên đảo Cyprus, Thổ Nhỉ Kỳ mất vùng bờ biển phía nam. Năm 1974, sau khi các sĩ quan Hy Lạp lật đổ chính quyền Cyprus như một bước để tiến tới thống nhất với Hy Lạp. Thổ Nhĩ Kỳ đánh chiếm đảo và thành lập một chính quyền mới cho Cyprus với các đường ranh giới rõ ràng giữa Cyprus-Hy Lạp và Cyprus-Thổ Nhĩ Kỳ. Để chống lại nỗ lực này, Hoa Kỳ cắt giảm viện trợ quân sự cho Thổ Nhĩ Kỳ năm 1975.
Đáp trả Thổ Nhĩ Kỳ không cho Mỹ sử dụng các căn cứ quân sự trên đất Thổ. Viện trợ quân sự Mỹ tái lập năm 1978, và căn cứ quân sự Hoa Kỳ hoạt động trở lại năm 1980. Tình trạng căng thẳng về sắc tộc, tôn giáo, hoạt động của cánh tả, và cánh hữu cực đoan đã tạo nên các cuộc bạo loạn thường xuyên ở Thổ Nhĩ Kỳ. Quân đội nhân cơ hội đó chiếm quyền năm 1978 đến năm 1984. Thổ Nhĩ Kỳ là một thành viên của lực lượng Liên minh đánh đuổi Iraq ra khỏi Kuwait năm 1991. Hậu quả của cuộc đánh đuổi nầy là hàng triệu người Kurd sống ở biên giới chạy sang Thổ Nhĩ Kỳ trốn thoát quân đội Iraq. Thổ Nhĩ Kỳ còn phải đánh nhau với người Kurd ly khai ở vùng biên giới phía bắc gây thương vong nặng nề cho cả du kích và chính phủ. Lực lượng ly khai Kurd đòi thành lập một quốc gia độc lập.
Ngày 24/6/1993, người Kurd hiếu chiến đồng loạt tấn công các viên chức ngoại giao Thổ Nhĩ Kỳ tại 25 thành phố ở Tây Âu. Ngày 5/7/1993, bà Tansu Ciller người phụ nữ đầu tiên của Thổ Nhĩ Kỳ trở thành Thủ tướng. Đảng Phúc lợi xã hội (Welfare Party), một tổ chức Hồi giáo đạt tới sự vững mạnh trong thập niên 1990, nhưng vẫn không đủ tỷ số để thành lập chính quyền. Cho đến tháng 6 năm 1996, nhờ liên minh với đảng Path công lý của Ciller mới thành lập được chính phủ. Chính quyền Hồi giáo từ nhiệm ngày 18/6/1997, do sức ép của quân đội. Liên hiệp Âu Châu từ chối đơn xin gia nhập của Thổ Nhĩ Kỳ ngày 12/12/1997. Quân đội gia tăng các cuộc hành quân chống lại lực lượng Hồi giáo cực đoan năm 1998. Lãnh đạo tổ chức bạo loạn người Kurk Abdullah Ocalan bị bắt ngày 15/2/1999 về tội khủng bố.
Ngày 29/6/1999, Ocalan bị tuyên án tử hình bởi một tòa án an ninh quốc gia. Ngày 5/8, Tổ chức người Kurk của ông ta tuyên bố rằng họ sẽ từ bỏ bạo loạn vũ trang. Một trận động đất phía Tây bắc Thổ Nhĩ Kỳ ngày 17/8, làm chết trên 17.000 và nhiều ngàn người bi thương. Ngày 12/11, một trận địa chấn khác xẫy ra gần đó nơi có 675 cư dân sinh sống. Ngày 6/12/2000, Quỹ Tiền tệ Thế giới (IMF) công bố sẽ cho Thổ Nhĩ Kỳ vay 7 tỷ USD để đối phó khẩn cấp với cuộc khủng hoảng tài chánh nghiêm trọng tại nước này. Ngày 3/8/2002, Quốc hội thông qua luật bải bỏ án phạt tử hình, và bản án tử hình Ocalan được giảm xuống còn tù chung thân. Với một Liên minh cầm quyền manh mún, Thủ tướng Bulent Ecevit miễn cưỡng đồng ý cho tổ chức tuyển cử vào ngày 3/11/2002. Ông ta chỉ cầm quyền một nhiệm kỳ 18 tháng.
Đảng Công lý và Phát triển (AKP) của một nhóm Hồi giáo do Recep Tayyip Erdogan lảnh đạo chiếm đa số trong cuộc bầu cử Quốc hội và trở thành Thủ tướng. Tháng 3-4/2003, khi Hoa Kỳ lảnh đạo Liên quân xâm lăng Iraq, Thổ Nhỉ Kỳ không cho phép Liên quân đổ bộ lên đất Thổ để từ đó đánh chiếm phía vào Iraq. Ngày 15-20/11/2003, nhóm Hồi giáo cực đoan bằng các vụ đánh bom tự sát giết chết 58 người, và làm bị thương 750 người tại hai thánh đường Hồi giáo, lảnh sự quán Anh, và một chi nhánh ngân hàng, tất cả đều ở Istanbul. Trong cuộc bầu cử Quốc hội ngày 22/7/2007, đảng (AKP) đương quyền dẫn đầu với 351 ghế, đảng Cộng hòa Nhân dân đối lập (CHP) 112 ghế. Bất chấp sự phản đối của quân đội và những người thế tục, ngày 28/8/2007, Quốc hội đã bầu (vòng 3) Abdullahb Gul một người Hồi giáo làm Tống thống.
Trong một nổ
lực ngăm cấm đảng Công lý và Phát triển Thổ Nhỉ Kỳ không thành công, ngày
30/7/2008, Tòa án Hiến pháp cắt giảm ½ công quỷ tài trợ cho đảng nầy, và loan
báo sẽ hạn chế thêm nữa sự chi phối của đạo Hồi lên Hiến pháp quốc gia. Đơn xin
gia nhập Liên hiệp Âu Châu của Thổ Nhỉ Kỳ bị từ chối, cho đến khi nào nước nầy
có được thành tích về cải cách nhân quyền.
B. Thổ Nhĩ Kỳ ngày nay.
Hiến pháp và
Chính quyền: Hiến pháp do cử tri thông qua và có hiệu lực thi hành năm 1982. Tu
chỉnh Hiến pháp ngày 21/10/2007, theo đó chức vụ Tổng thống sắp tới sẽ do dân
bầu trực tiếp với nhiệm kỳ 5 năm, không quá 2 nhiệm kỳ. Hiện thì Tổng thống do
Quốc hội bầu với 1 nhiệm kỳ 7 năm. Tổng thống là nguyên thủ quốc gia, nhưng
không nắm quyền Hành pháp. Thủ tướng chính phủ thường là lảnh tụ đảng chiếm đa
số ghế tại Quốc hội. Quốc hội chỉ có 1 viện, gồm 550 đại biểu do dân bầu với
nhiệm kỳ 5 năm. Tòa án Hiến pháp có 15 Thẩm phán thường trực và cứ 5 năm luân
phiên thay đổi 1/3.
Cư dân và lãnh thổ. Con người: Dân số: 77.804.122, dưới 15 tuổi 26,9%, trên 65 tuổi 6,2%. Mật độ dân cư: 101,1 người/km2. Thành phố: 69,2%. Sắc tộc: Thổ nhĩ kỳ 80%, Kurd 20%. Ngôn Ngữ: Thổ Nhĩ Kỳ (Chính), Kurd, Arab, Armenian, Greek. Tôn giáo: Hồi giáo 99,8%. Đất đai: Tổng diện tích 780.580 km2. Diện tích đất 770.760 km2. Địa điểm: nằm trong Tây Nam Á kéo dài vào tới lục địa châu Âu, giáp ranh biển Địa Trung Hải và biển Đen. Quốc gia láng giềng: Bulgaria, Hy Lạp phía tây. Georgia, Armenia phía bắc. Iran phía đông. Iraq, Syria phía nam. Địa thế: Trung tâm Thổ Nhĩ Kỳ là một vùng cao nguyên bằng phẳng rộng lớn, nóng và khô về mùa hè và lạnh mùa đông. Núi cao bao quanh tất cả nội địa về phía tây, có hơn 20 đỉnh núi cao trên 10.000ft. Bình nguyên trải dài cũng nằm ở phía tây. Nhiệt độ hài hòa, đồng bằng phì nhiêu dọc theo bờ biển phía tây nam. Thủ đô: Ankara. Thành phố đông dân: Istanbul 10.378.000, Ankara 3.846.000, Izmir 2.679.000, Bursa 1.559.000 cư dân.
Cư dân và lãnh thổ. Con người: Dân số: 77.804.122, dưới 15 tuổi 26,9%, trên 65 tuổi 6,2%. Mật độ dân cư: 101,1 người/km2. Thành phố: 69,2%. Sắc tộc: Thổ nhĩ kỳ 80%, Kurd 20%. Ngôn Ngữ: Thổ Nhĩ Kỳ (Chính), Kurd, Arab, Armenian, Greek. Tôn giáo: Hồi giáo 99,8%. Đất đai: Tổng diện tích 780.580 km2. Diện tích đất 770.760 km2. Địa điểm: nằm trong Tây Nam Á kéo dài vào tới lục địa châu Âu, giáp ranh biển Địa Trung Hải và biển Đen. Quốc gia láng giềng: Bulgaria, Hy Lạp phía tây. Georgia, Armenia phía bắc. Iran phía đông. Iraq, Syria phía nam. Địa thế: Trung tâm Thổ Nhĩ Kỳ là một vùng cao nguyên bằng phẳng rộng lớn, nóng và khô về mùa hè và lạnh mùa đông. Núi cao bao quanh tất cả nội địa về phía tây, có hơn 20 đỉnh núi cao trên 10.000ft. Bình nguyên trải dài cũng nằm ở phía tây. Nhiệt độ hài hòa, đồng bằng phì nhiêu dọc theo bờ biển phía tây nam. Thủ đô: Ankara. Thành phố đông dân: Istanbul 10.378.000, Ankara 3.846.000, Izmir 2.679.000, Bursa 1.559.000 cư dân.
Chính trị và
kinh tế: Loại chính quyền: Cộng hòa. Nguyên thủ quốc gia: Tổng thống Addullah
Gul, sinh ngày 29/10/1950, nhậm chức: 28/8/2007. Thủ tướng chính phủ: Recep
Tayyip Erdogan, sinh ngày 26/2/1954, nhậm chức 14/3/2003 (tái bầu tháng
7/2007). Chính quyền địa phương: 81 tỉnh. Ngân sách quốc phòng: 9,9 tỷ USD.
Quân đội chính quy: 510.600. Kinh tế: Công nghiệp: dệt, khai thác mỏ, dầu khí,
luyện kim, xe hơi và chế biến thực phẩm. Nông sản: thuốc lá, hạt ngũ cốc, bông
sợi, các loại đậu, cam chanh, olives, củ cải đường. Tài nguyên: nguyên tố kim
loại trắng, nguyên tố kim loại thép cứng không gỉ, đồng, thau, quặng sắt, thủy
điện. Dự trữ nhiên liệu: 300 triệu thùng. Đất nông nghiệp: 30%. Chăn nuôi: trâu
bò 10,9 triệu, gà 344,8 triệu, dê 6,5 triệu, heo 1.362, cừu 25,4 triệu. Đánh
cá: 662.121 tấn. Sản xuất điện: 188,4 tỷ Kwh. Phân bố lao động và đóng góp vào
Tổng sản lượng quốc gia: nông nghiệp 29,5%, đóng góp 12%; công nghiệp 24,7%,
đóng góp 30%; dịch vụ 45,8%, đóng góp 58%.
Tài chánh và
an sinh: Đơn vị tiền tệ: Đồng Lira (tháng 9/2010: 1,50 = 1 USD). Tổng sản phẩm
nội địa: 874,5 tỷ. Bình quân đầu người: 11.400 USD. Tăng trưởng: -5,6%. Nhập
khẩu: 134,6 tỷ. Bạn hàng: Liên bang Nga 12,7%, Đức 10,6%, Trung Quốc 7%, Ý
6,3%, Pháp 4,8%, Hoa kỳ 4,3%, Iran 4,1%. Xuất khẩu: 109,7 tỷ. Bạn hàng: Đức
11,4%, Anh 8%, Ý 7,9%, Hoa Kỳ 5,9%, Pháp 5,4%, Tây Ban Nha 4,3%. Du lịch: 22,0
tỷ. Ngân sách quốc gia: 180,6 tỷ. Dự trữ ngoại tệ: 45,2 tỷ. Dự trữ vàng: 3,7
triệu ozt. Nợ nước ngoài: 16,9 tỷ. Giá cả tiêu thụ: tăng 6,3%. Vận chuyển:
Đường xe lửa: 8.604 km; Bằng xe hơi: 5,8 triệu lượt xe, xe hơi cá nhân 2,7
triệu chiếc; Bằng máy bay: bay trên 20,4 tỷ km, sân bay 90. Hải cảng: Istanbul,
Izmur, Mersin. Truyền thông: Máy truyền hình 328/1000. Radios 510/1000. Điện
thoại: 22,1/100. Internet: 35,3/100 người sử dụng. Sức khỏe y tế: Tuổi thọ: nam
70,4, nữ 74,2. Sinh xuất: 18,3/1000 người. Tử xuất: 6,1/1000 người. Tăng dân số
tự nhiên: 1,2%. Chết trước tuổi trưởng thành: 24,8/1000 trẻ sơ sinh. Nhiểm bệnh
AIDS: không có số liệu. Giáo dục: tuổi cưỡng bức đi học 6-14 tuổi, biết đọc
biết viết 88,7%, trung học 70%, đại học 14%.
Tham gia tổ chức quốc tế: Liên Hiệp Quốc (UN) và các tổ chức phụ thuộc như Lương nông Thế giới (FAO), Ngân hàng Thế giới (IBRD), Lao động Thế giới (ILO), Quỷ tiền tệ Thế giới (IMF), Hàng hải Thế giới (IMO), Y tế Thế giới (WHO), Mậu dịch Thế giới (WTrO). Hiệp ước Bắc Đại Tây Dương (NATO). Hợp tác Kinh tế và Phát triển (OECD). Hợp tác An ninh Châu Âu (OSCE).
Tham gia tổ chức quốc tế: Liên Hiệp Quốc (UN) và các tổ chức phụ thuộc như Lương nông Thế giới (FAO), Ngân hàng Thế giới (IBRD), Lao động Thế giới (ILO), Quỷ tiền tệ Thế giới (IMF), Hàng hải Thế giới (IMO), Y tế Thế giới (WHO), Mậu dịch Thế giới (WTrO). Hiệp ước Bắc Đại Tây Dương (NATO). Hợp tác Kinh tế và Phát triển (OECD). Hợp tác An ninh Châu Âu (OSCE).
2. GEORGIA
A. Tiến trình phát triển.
A. Tiến trình phát triển.
Georgia là
một vùng bao gồm 2 vương quốc Colchis và Iberia thời cổ đại, bị Thiên chúa giáo
hóa vào thế kỷ thứ 4 và người Arabs xâm chiếm ở thế kỷ 8. Nó mở rộng từ Biển
bắc đến Caspian gồm các phần đất của Armenia và Persia trước khi bị chia cắt
bởi hai cuộc xâm lăng của Mông Cổ (Mongol) và Thổ Nhĩ Kỳ (Turkist). Georgia bị
sáp nhập vào Nga năm 1801 và là nguyên nhân dẫn đến chiến tranh giữa Nga và
Persia từ năm 1804 đến 1813. Georgia vào Liên bang Xô viết (USSR) năm 1922, và
trở thành một Cộng hòa của Liên bang năm 1936. Georgia tuyên bố độc lập ngày
9/4/1991, trở thành một quốc gia độc lập khi Liên bang Xô viết tan rã ngày
26/12/1991. Cuộc chiến diễn ra giữa lực lượng bạo loạn và những người trung
thành với Tổng thống Zviad Gamsakhurdia trong suốt năm 1991.
Gamsakhurdia
đào thoát khỏi thủ đô ngày 6/1/1992. Hội đồng Quân sự cai trị lâm thời chọn
nguyên Bộ trưởng Ngoại giao Liên bang Xô viết, Eduard A. Shevardnadze vào chức
Chủ tịch Hội đồng Quốc gia. Một nỗ lực đảo chánh bằng quân sự của lực lượng
trung thành với Gamsakhurdia bị dập tắt ngày 24/6/1992. Cũng trong năm 1992,
Shevardnadze được bầu làm Tổng thống. Gamsakhurdia chết tháng 1/1994 được ghi
nhận là tự sát. Tại Abkhazia Cộng hòa tự quản của Georgia, sắc tộc Abkhazis
được hậu thuẫn của Liên bang Nga tiến hành các cuộc bạo loạn đẫm máu. Đến cuối
năm 1993, họ kiểm soát được nhiều nơi trong vùng. Thỏa ước ngưng bắn qua trung
gian của Liên bang Nga được ký ngày 14/5/1994 tại Moscow. Các sự đụng độ thỉnh
thoảng vẫn diễn ra cho đến cuối thập niên 1990.
Ngày 3/2/1995
Georgia ký thỏa ước với Liên bang Nga hợp tác về quân sự và kinh tế. Ngày
1/3/1995, Hội đồng Tối cao Georgia phê chuẩn tư cách thành viên của Georgia
trong Khối Thịnh vượng chung các Quốc gia độc lập (CIS). Shevardnadze bị thương
trong một vụ đặt bom xe hơi ngày 29/8/, trong khi đang trên đường đến Quốc hội
ký Hiến pháp mới. Ông ta được tái bầu chức Tổng thống ngày 5/11. Shevardnadze
thoát khỏi một vụ mưu sát khác ngày 9/2/1998, khi một tay súng phục kích đoàn
xe hộ tống ông ta. Một cuộc đảo chánh quân sự bị đập tan ngày 19/10. Ngày
9/4/2000, Shevardnadze thắng thêm một nhiệm kỳ Tổng thống 5 năm. Quân bạo loạn
Chechen đặt căn cứ ở Pankisi Gorge, Đông bắc Tbilisi, tung ra tấn công quân đội
Liên bang Nga ở Chechnya, làm thêm căng thẳng giữa Liên bang Nga và Georgia.
Cuộc bầu cử
Quốc hội ngày 2/11/2003, bị phe đối lập lên án là gian lận, làm dấy lên một làn
sóng phản đối khắp nơi, khiến Shevardnadze phải từ chức ngày 23/11. Lảnh tụ đối
lập Mikhail Saakashvili được bầu làm Tổng thống ngày 4/1/2004. Ngày 10/5/2005,
trong khi đang phát biểu trước công chúng tại Tbilisi, thì một quả lựu đạn ném
lên khán đài nhưng không nổ, Vladimir Arutyunian bị bắt và bị buộc tội ám sát
yếu nhân tại phiên xử ngày 11/1/2006. Ngày 6/9/2006, một âm mưu đảo chánh bị
dập tắt. Các cuộc biểu tình có bạo loạn lan nhanh khiến ngày 7-16/11/2007, Tổng
thống Saakashvili ban hành lệnh khẩn trương, và kêu gọi bầu cử sớm ngày
5/1/2008. Kể từ quốc gia tái thâu hồi độc lập, cư dân vùng Nam Ossetia và
Abkhazia với sự hậu thuẩn của Nga đòi ly khai, luôn là một thách thức đối với
chính quyền Tbilisi.
Chiến tranh
thực sự nổ ra giữa Georgia và Nga ngày 7/8/2008, khi Saakashvili gởi quân đến
đàn áp cuộc lực lượng ly khai ở Tskhinvali phía Nam thủ đô Ossetian. Nga trả
đủa bằng cách đưa quân vào đánh bật lực lượng Georgia ra khỏi Nam Ossetia và
Abkhazia. Nga còn tung quân đánh chiếm vài thành phố then chốt của Georgia.
Ngày 15-16/8, một cuộc thương thảo và hiệp ước ngưng bắn được ký, Nga rút quân
nhưng được phép để lại một đội quân duy trì sự ngưng bắn trong vùng. Ngày
26/8/2008, Tổng thống Nga Dmitri Medvedev chính thức thừa nhận độc lập của
Ossetia và Abkhazia. Hoa Kỳ, Georgia, và các nước đồng minh phương Tây thì lên
tiếng phản đối. Ngày 22/10, các nước cấp viện quốc tế cam kết sẽ viện trợ tái
thiết cho Georgia 4,5 tỷ USD trong đó có
1,5 tỷ từ Liên hiệp Châu Âu, và 1,0 tỷ từ Hoa Kỳ. Ngày 11/8/2010, Nga tuyên bố
đã thiết đặt hệ thống tên lữa phòng không tại Abkhazia.
B. Georgia ngày nay.
Hiến pháp và Chính quyền: Hiến pháp mới ngày 24/8/1995, xác định Georgia là một Cộng hòa Liên bang theo chế độ Tổng thống chế. Tổng thống là nguyên thủ quốc gia được bầu bởi toàn dân, có nhiệm kỳ 5 năm và giới hạn trong 2 nhiệm kỳ. Tổng thống bổ nhiệm Thủ tướng. Quốc hội gồm 235 đại biểu do dân bầu tại các khu vực bầu cử quy định. Biên độ tăng giảm 5%.
Hiến pháp và Chính quyền: Hiến pháp mới ngày 24/8/1995, xác định Georgia là một Cộng hòa Liên bang theo chế độ Tổng thống chế. Tổng thống là nguyên thủ quốc gia được bầu bởi toàn dân, có nhiệm kỳ 5 năm và giới hạn trong 2 nhiệm kỳ. Tổng thống bổ nhiệm Thủ tướng. Quốc hội gồm 235 đại biểu do dân bầu tại các khu vực bầu cử quy định. Biên độ tăng giảm 5%.
Cư dân và
lãnh thổ: Con người: Dân số: 4.601.000, dưới 15 tuổi 15,8%, trên 65 tuổi 16,2%.
Mật độ dân cư: 66 người/km2. Thành phố: 52,7%. Sắc tộc: Georgian 84%, Azeri 7%,
Armenian 6%. Ngôn Ngữ: Georgian (chính), Russian, Abkhaz. Tôn giáo: Chính thống
giáo Georgia 84%, Hồi giáo 10%, Chính thống giáo Armenia 4%. Đất đai: Tổng diện
tích 69.700 km2. Diện tích đất 69.700 km2. Địa điểm: phía Tây Nam Châu Á, trên
bờ Bắc biển Đen. Quốc gia láng giềng: Liên bang Nga về phía bắc và đông bắc.
Thổ Nhĩ Kỳ và Armenia phía nam. Azerbaijan phía đông nam. Địa thế: tách ra từ
Liên bang Nga, dãy núi Caucasus nằm về phía Đông bắc. Thủ đô: Tbilisi 1.115.000
cư dân.
Chính trị và
kinh tế: Loại chính quyền: Cộng hòa. Nguyên thủ quốc gia: Tổng thống Mikhail
Saakashvili, sinh 21/12/1967, nhậm chức 25/1/2004 (tái bầu tháng 1/2008). Thủ
tướng chính phủ: Nikoloz (Nika) Gilauri, sinh 14/2/1975, nhậm chức 6/2/2009.
Chính quyền địa phương: 53 tỉnh, 9 thành phố, 2 Cộng hòa tự trị. Ngân sách quốc
phòng: 537 triệu USD. Quân đội chính quy: 21.150. Kinh tế: Công nghiệp: thép,
máy bay, máy công cụ, máy chuyên dùng, hầm mỏ, hóa chất. Nông sản: cam chanh,
khoai tây, rau quả, nho, trà. Tài nguyên: nguyên tố mangan, quặng sắt, đồng,
than, thủy điện, gổ. Dự trữ nhiên liệu: 35 triệu thùng. Đất nông nghiệp: 12%.
Chăn nuôi: trâu bò 1,3 triệu, gà 5,9 triệu, dê 107.600, heo 509.700, cừu
816.000. Đánh cá: 3.075 tấn. Sản xuất điện: 7,1 tỷ Kwh. Phân bố lao động và
đóng góp vào Tổng sản lượng quốc gia: nông nghiệp 55,6%, đóng góp 21%; công
nghiệp 8,9%, đóng góp 23%; dịch vụ 35,5%, đóng góp 56%.
Tài chánh và an sinh: Đơn vị tiền tệ: Đồng Lari (tháng 9/2010: 1,84 = 1 USD). Tổng sản phẩm nội địa: 20,2 tỷ. Bình quân đầu người: 4.400. Tăng trưởng: -6,7%. Nhập khẩu: 4,3 tỷ. Bạn hàng: Liên bang Nga 17%, Turkey 12,3%, Hoa Kỳ 7,9%, Azerbaijan 7,8%, Ukraine 7,4%, Đức 7,1. Xuất khẩu: 1,8 tỷ. Bạn hàng: Anh: 21,5%, Thổ Nhĩ Kỳ 16,9%, Hoa Kỳ 5,8%, Tây Ban Nha 5,8%, Azerbaijan 5,6%, Turkmenistan 5,1%. Du lịch: 447 triệu. Ngân sách quốc gia: 4,0 tỷ. Dự trữ ngoại tệ: 1,3 tỷ. Dự trữ vàng: không có số liệu. Nợ nước ngoài: 1,8 tỷ. Giá cả tiêu thụ: tăng 1,7%. Vận chuyển: Đường xe lửa: 1.612 km. Bằng xe hơi 224.200 lượt xe, xe hơi cá nhân 68.600 chiếc. Bằng máy bay: bay trên 472,8 triệu km, sân bay 19. Hải cảng: Batumi, Sukhumi. Truyền thông: Máy truyền hình 516/1000. Radios 590/1000. Điện thoại: 14,6/100. Internet: 30,5/100 người sử dụng. Sức khỏe y tế: Tuổi thọ: nam 73,6, nử 80,6. Sinh xuất: 10,7/1000 người. Tử xuất: 9,8/1000 người. Tăng dân số tự nhiên: 0,1%. Chết trước tuổi trưởng thành: 15,7/1000 trẻ sơ sinh. Nhiểm bệnh AIDS: 0,1%. Giáo dục: tuổi cưỡng bức đi học 6-14 tuổi, biết đọc biết viết 99,7%, trung học 79%, đại học 34.
Tài chánh và an sinh: Đơn vị tiền tệ: Đồng Lari (tháng 9/2010: 1,84 = 1 USD). Tổng sản phẩm nội địa: 20,2 tỷ. Bình quân đầu người: 4.400. Tăng trưởng: -6,7%. Nhập khẩu: 4,3 tỷ. Bạn hàng: Liên bang Nga 17%, Turkey 12,3%, Hoa Kỳ 7,9%, Azerbaijan 7,8%, Ukraine 7,4%, Đức 7,1. Xuất khẩu: 1,8 tỷ. Bạn hàng: Anh: 21,5%, Thổ Nhĩ Kỳ 16,9%, Hoa Kỳ 5,8%, Tây Ban Nha 5,8%, Azerbaijan 5,6%, Turkmenistan 5,1%. Du lịch: 447 triệu. Ngân sách quốc gia: 4,0 tỷ. Dự trữ ngoại tệ: 1,3 tỷ. Dự trữ vàng: không có số liệu. Nợ nước ngoài: 1,8 tỷ. Giá cả tiêu thụ: tăng 1,7%. Vận chuyển: Đường xe lửa: 1.612 km. Bằng xe hơi 224.200 lượt xe, xe hơi cá nhân 68.600 chiếc. Bằng máy bay: bay trên 472,8 triệu km, sân bay 19. Hải cảng: Batumi, Sukhumi. Truyền thông: Máy truyền hình 516/1000. Radios 590/1000. Điện thoại: 14,6/100. Internet: 30,5/100 người sử dụng. Sức khỏe y tế: Tuổi thọ: nam 73,6, nử 80,6. Sinh xuất: 10,7/1000 người. Tử xuất: 9,8/1000 người. Tăng dân số tự nhiên: 0,1%. Chết trước tuổi trưởng thành: 15,7/1000 trẻ sơ sinh. Nhiểm bệnh AIDS: 0,1%. Giáo dục: tuổi cưỡng bức đi học 6-14 tuổi, biết đọc biết viết 99,7%, trung học 79%, đại học 34.
Tham gia tổ
chức quốc tế: Liên Hiệp Quốc (UN) và các tổ chức phụ thuộc như Lương nông Thế
giới (FAO), Ngân hàng Thế giới (IBRD), Lao động Thế giới (ILO), Quỹ tiền tệ Thế
giới (IMF), Hàng hải Thế giới (IMO), Y tế Thế giới (WHO). Các quốc gia Độc lập
vì Thịnh vượng (CIS). Hợp tác An ninh Châu Âu (OSCE).
3. ARMENIA - REPUBLIC OF ARMENIA
A. Tiến trình phát triển.
A. Tiến trình phát triển.
Thời Cổ đại
Armenia mở rộng ra tận các nơi bây giờ là Thổ Nhĩ Kỳ và Iran. Từ thế kỷ 20,
Armenia trải qua nhiều sự biến. Được thành lập như một Xô viết Cộng hòa
2/4/1921. Sáp nhập với Georgia và Aberbaijan ngày 12/3/1922, để thành lập
Transcaucasian SFSR (vùng núi Cauca thuộc Châu Á), cái trở thành một phần của
Liên bang Xô viết ngày 30/12/1922. Armenia chính thức là thành viên của Liên
bang Xô viết ngày 5/12/1936. Trận động đất xảy ra ở Armenia ngày 7/12/1988, làm
khoảng 55.000 người chết, nhiều thành phố thị trấn sụp đổ tiêu điều. Armenia
tuyên bố độc lập ngày 23/9/1991 và chính thức là một quốc gia độc lập khi Liên
bang Xô viết tan rã ngày 26/12/1991. Cuộc chiến giữa những người Armenia theo
Thiên chúa giáo và những người Azerbaizan theo Hồi giáo gia tăng trong năm 1992
và năm 1993.
Cả Azerbaizan
và Armenia đều cho rằng Nagorno-Karabakh một vùng đất nằm trong nội địa
Azerbaizan, nơi hầu hết cư dân thuộc sắc tộc Armenia là của mình. Một thỏa ước
ngưng bắn tạm thời được công bố ngày 5/1994, trao cho lực lượng Armenia tiếp
tục kiểm soát vùng này. Cử tri chấp nhận Hiến pháp mới ngày 5/7/1995, theo đó
quyền hành của tổng thống có tăng thêm. Tổng thống Levon Ter-Petrosyan được tái
bầu ngày 22/9/1996 bị cho là gian lận. Ông ta từ chức ngày 3/2/1998 do có mâu
thuẫn trên vấn đề tranh chấp vùng Nagorno-Karabakh. Robert Kocharian một người
theo chủ nghĩa quốc gia, sinh ra tại vùng tranh chấp này thắng trong cuộc bầu
chọn Tổng thống vào ngày 30/3/1998. Một nhóm người vũ trang tấn công Quốc hội
ngày 27/10/1999, giết chết Thủ tướng Vazgen Sarkissian và 7 người khác.
Trong vòng
bầu Tổng thống chung cuộc ngày 5/3/2003, Kocharian tái đắc cử nhiệm kỳ hai,
nhưng phe đối lập và quan sát viên phương Tây cho đó là một cuộc bầu cử gian
lận. Cuộc bầu cử 131 đại biểu Quốc hội ngày 12/5/2007, ba đảng dẫn đầu là đảng
Cộng hòa (HHK) với 64 ghế, đảng Thịnh vượng (BHK) 24 ghế, đảng Liên đoàn Cách
mạng (HHD) 16 ghế, các đảng nhỏ tranh nhau số ghế còn lại. Cuộc bầu cử Tổng
thống ngày 19/2/2008, đương kim Thủ tướng Serzh Sargsyan đắc cử với 52,8% phiếu
bầu, cựu Tổng thống Levon Ter-Petrosyan chỉ nhận được 21,5% phiếu bầu. Ngày
1/3, trong một cuộc đàn áp những người biểu tình tại thủ đô Yerevan đã làm 8
thường dân, 1 cảnh sát bị thiệt mạng và trên 450 người bị thương. Ngày 21/3,
sau 20 ngày tuyên bố, tình trạng khẩn trương được gở bỏ ở thủ đô Yerevan, nhưng tại
Sargsyan kéo dài đến ngày 9/4/2008.
Ngày
10/10/2009, Armenia và Thổ Nhỉ Kỳ ký Hiệp ước thiết lập quan hệ bình thường sau
một thời gian dài bất hòa giữa hai nước. Và Hiệp ước chính thức được phê chuẩn
ngày 22/4/2010.
B. Armenia ngày nay.
Hiến pháp và
Chính quyền: Hiến pháp được cử tri chấp nhận trong cuộc “trưng cầu dân ý” ngày
5/7/1995, xác định Tổng thống là nguyên thủ quốc gia do dân bầu trực tiếp, với nhiệm kỳ 5 năm. Tổng thống bổ nhiệm Thủ
tướng thường là lảnh tụ đảng chiếm đa số ghế tại Quốc hội. Quốc hội có 131 đại
biểu, trong đó 90 đại biểu do các đảng phái có đăng ký hoạt động bầu chọn, và
41 đại biểu do dân bầu trực tiếp.
Cư dân và
lãnh thổ: Con người: Dân số: 2.966.000, dưới 15 tuổi 17,9%, trên 65 tuổi 10,3%.
Mật độ dân cư: 105,2 người/km2. Thành phố: 64,1%. Sắc tộc: Armenian: 98%,
Russian 1%, Kurd 1%. Ngôn ngữ: Armenian (chính), Russian, Kurd. Tôn giáo: Chính
thống giáo Armenian 95%, Thiên chúa giáo khác 4%. Đất đai: Tổng diện tích
29.743 km2. Diện tích đất 28.203km2. Địa điểm: Tây Nam Á. Quốc gia láng giềng:
Georgia về phía bắc, Azerbaizan phía đông, Iran phía nam. Thổ Nhĩ Kỳ phía tây.
Địa thế: Nhiều núi non có đỉnh cao trên 10.000ft. Thủ đô: Yerevan 1.110.000 cư
dân.
Chính trị và
kinh tế: Loại chính quyền: Cộng hòa. Nguyên thủ quốc gia: Tổng thống Serzh
Sargsyan, sinh 30/6/1954, nhậm chức 9/4/2008. Thủ tướng chính phủ: Tigran
Sargsyan, sinh 29/1/1960, nhậm chức 9/4/2008. Chính quyền địa phưong: 10 tỉnh, 01
thành phố. Ngân sách quốc phòng: 376 triệu USD. Quân đội chính quy: 46.684.
Kinh tế: Công nghiệp: máy móc và máy công cụ, động cơ điện, hàng dệt, may mặc.
Nông sản: rau quả, nho. Tài nguyên: đồng, vàng, nguyên tố kim loại trắng. Đất
nông nghiệp: 17%. Chăn nuôi: trâu bò 620.2000, gà 3,9 triệu, dê 45.700, heo
152.800, cừu 587.200. Đánh cá: 1.406 tấn. Sản xuất điện: 5,6 tỷ Kwh. Phân bố
lao động và đóng góp vào Tổng sản lượng quốc gia: nông nghiệp 46,2%, đóng góp
23%; công nghiệp 15,6%, đóng góp 25%; dịch vụ 38,2%, đóng góp 52%.
Tài chánh và
an sinh: Đơn vị tiền tệ: Đồng Dram (tháng 9/2010: 363,3=1 USD). Tổng sản phẩm
nội địa: 16,2 tỷ. Bình quân đầu người: 5.500. Tăng trưởng: -14,4%. Nhập khẩu: 2,7
tỷ. Bạn hàng: Nga 20,6%, Ukraine 7,4%, Belgium 7,2%, Turkmenistan 6,7%, Italy
5,8%, Đức 5,4%, Iran 5,4%,. Xuất khẩu: 0,7 tỷ. Bạn hàng: Đức 16,9, Hoà Lan
12,6%, Belgium 12,4%, Russia 12,2%, Georgia 7,5%, Israel 6,6%, Hoa kỳ 5,7%,
Switzerland 5,2%. Du lịch: 331 triệu. Ngân sách quốc gia: 2,5 tỷ. Dự trữ ngoại
tệ: 1,2 tỷ. Dự trữ vàng: không có số liệu. Nợ nước ngoài: 0,9 tỷ. Giá cả tiêu
thụ: tăng 3,4%. Vận chuyển: Đường xe lửa: 844 km. Bằng xe hơi: Không có số
liệu. Bằng máy bay: bay 973,7 triệu km, sân bay 10. Truyền thông: Máy truyền
hình 241/1000 cư dân. Radios 239/1000. Điện thoại: 20,4/100. Internet: 6,8/100
người sử dụng. Sức khỏe y tế: Tuổi thọ: nam 69,3, nữ 77,1. Sinh xuất: 12,7/1000
người. Tử xuất: 8,4/1000 người. Tăng dân số tự nhiên: 0,4%. Chết trước tuổi
trưởng thành: 19,5/1000 trẻ sơ sinh. Nhiểm bệnh AIDS: 0,1%. Giáo dục: tuổi
cưỡng bức đi học 7-14 tuổi, biết đọc biết viết 99,5%, trung học 80%, đại học
14%.
Tham gia tổ
chức quốc tế: Liên Hiệp Quốc (UN) và các tổ chức phụ thuộc của nó như Lương
nông Thế giới (FAO), Ngân hàng Thế giới (IBRD), Lao động Thế giới (ILO), Quỹ
tiền tệ Thế giới (IMF), Y tế Thế giới (WHO). Các Quốc gia độc lập vì Thịnh
vượng (CIS). Hợp tác An ninh Châu Âu (OSCE).
4. AZERBAIJAN – REPUBLIC OF AZERBAIJAN.
A. Tiến trình phát triển.
Azerbaijan là
quê nhà của bộ tộc Scythian và là một phần của đế quốc La Mã. Thổ Nhĩ Kỳ xâm
chiếm từ thế kỷ 11, Nga chiếm đóng năm 1806 và 1813. Azerbaijan gia nhập Liên
bang Xô viết (USSR) ngày 30/12/1922 và trở thành một Cộng hoà của Liên bang Xô
viết năm 1936. Azerbaijan tuyên bố độc lập ngày 30/8/1991 và chính thức là một
quốc gia độc lập khi Liên bang Xô viết tan rã ngày 26/12/1991. Năm 1992, cuộc
chiến nỗ ra giữa những người đa số theo Hồi giáo Azerbaijan và những người đa
số là Thiên chúa giáo Armenia. Cuộc chiến lại tiếp tục trong năm 1993 và 1994.
Cả Azerbaizan lẫn Armenia đều cho rằng vùng Nagorno Karabakh nằm trong nội địa
Azerbaijan là của mình. Tháng 5/1994, một thỏa ước ngưng bắn tạm thời, trao cho
Armenia kiểm soát vùng này.
Ngày
10/5/1992, Hội đồng Quốc gia bãi chức Tổng thống Cọng sản Mutaibov và nắm quyền
kiểm soát quốc gia. Ngày 7/6/1992, Abulfez Elchibey, người quốc gia đầu tiên
được bầu làm Tổng thống. Ông ta bị lật đổ ngày 30/6/1993, bởi Surat Huseynov
chỉ huy trưởng lực lượng dân quân.
Huseynov trở thành Thủ tướng, và Haydar Aliyev một đảng viên cộng sản
được Nga hậu thuân trở thành Tổng thống. Tháng 10/1994, Huseynov đào thoát khỏi
Azerbaijan sau khi những người ủng hộ ông ta thực hiện một cuộc đảo chánh không
thành. Ngày 12/11/1995, cử tri chấp nhận Hiến pháp mới tăng thêm quyền hạn cho
Tổng thống. Tổng thống Aliyev được tái bầu ngày 11/10/1998, người ta gọi đó là
một cuộc bầu cử gian lận. Tháng 12/2001, hệ thống chữ viết Azerbaijan chính
thức đưa vào sử dụng thay thế chữ Cyrillic alphabet thời Liên Xô cũ.
Bằng một thủ
thuật chính trị, ngày 4/8/2003 Tổng thống Aliyev bổ nhiệm con trai ông ta là
Ilham làm Thủ tướng. Và hơn 2 tháng sau đó, trong cuộc bầu cử Tổng thống ngày
15/10/2003, Ilham Aliyev đắc cử. Quan sát viên quốc tế, và phe đối lập cho rằng
đó là một cuộc bầu cử gian lận, tổ chức biểu tình phản đối. Ngày 16/10 Aliyev
đáp trả bằng cách bắt giam hàng trăm nhà lảnh đạo đối lập, và những người ủng
hộ họ. Cuộc bầu cử Quốc hội ngày 6/11/2005, đảng Azerbaijan mới (YAP) dẫn đầu
với 56 ghế, ứng viên độc lập 40 ghế, Khối Azadlig Tự do 6 ghế. Các đảng nhỏ
tranh nhau những ghế còn lại. Trong cuộc bầu cử tổng thống ngày 15/10/2008, Ilham
Aliyev tái đắc cử nhiệm kỳ hai giữa sự tẩy chay của các đảng chính trị phe đối
lập.
Ngày
18/3/2009, trong cuộc trưng cầu dân ý tu chính Hiến pháp xóa bỏ giới hạn nhiệm
kỳ tổng thống đã được cử tri chấp nhận. Azerbaijan cho phép Hoa Kỳ đặt căn cứ
như là điểm chuyển tiêp quân chiến đấu tại biên giới Afghanistan.
B. Azerbaijan ngày nay.
Hiến pháp và Chính quyền: Quốc hội Lập hiến ban đầu có 125 đại biểu, 100 đại biểu được bầu từ các khu vực bầu cử, và 25 đại biểu được phân bổ cho các đảng phái chính trị. Sau khi soạn thảo xong Hiến pháp, Hiến pháp được đưa ra “trưng cầu dân ý” ngày 12/11/1995, cùng với việc bầu cử Quốc hội mới. Theo đó Tổng thống là nguyên thủ quốc gia do dân bầu chỉ với hai nhiệm kỳ, mỗi nhiệm kỳ 5 năm. Tổng thống bổ nhiệm Thủ tướng chính phủ thường là lảnh tụ đảng chiếm đa số ghế tại Hạ viện. Tu chỉnh Hiến pháp được nhân dân chấp nhận trong cuộc “trưng cầu dần ý” ngày 24/8/2002, theo đó tất cả 125 đại biểu Quốc hội sẽ được nhân dân bầu ra từ các khu vực bầu cử, có hiệu lực thi hành kể từ cuộc bầu cử Quốc hội tháng 11 năm 2005. Tu chính Hiến pháp xóa bỏ giới hạn nhiệm kỳ tổng thống đã được cử tri chấp nhận trong cuộc trưng cầu dân ý ngày 18/3/2009.
Hiến pháp và Chính quyền: Quốc hội Lập hiến ban đầu có 125 đại biểu, 100 đại biểu được bầu từ các khu vực bầu cử, và 25 đại biểu được phân bổ cho các đảng phái chính trị. Sau khi soạn thảo xong Hiến pháp, Hiến pháp được đưa ra “trưng cầu dân ý” ngày 12/11/1995, cùng với việc bầu cử Quốc hội mới. Theo đó Tổng thống là nguyên thủ quốc gia do dân bầu chỉ với hai nhiệm kỳ, mỗi nhiệm kỳ 5 năm. Tổng thống bổ nhiệm Thủ tướng chính phủ thường là lảnh tụ đảng chiếm đa số ghế tại Hạ viện. Tu chỉnh Hiến pháp được nhân dân chấp nhận trong cuộc “trưng cầu dần ý” ngày 24/8/2002, theo đó tất cả 125 đại biểu Quốc hội sẽ được nhân dân bầu ra từ các khu vực bầu cử, có hiệu lực thi hành kể từ cuộc bầu cử Quốc hội tháng 11 năm 2005. Tu chính Hiến pháp xóa bỏ giới hạn nhiệm kỳ tổng thống đã được cử tri chấp nhận trong cuộc trưng cầu dân ý ngày 18/3/2009.
Cư dân và
lãnh thổ: Con người: Dân số 8.303.000, dưới 15 tuổi 23,4%, trên 65 tuổi 6,6%.
Mật độ dân cư: 100,5 người/km2. Thành phố: 51,8%. Sắc tộc: Azeri 91%, Dagestani
2%, Russian 2%, Armenian 2%. Ngôn ngữ: Azsri (chính), Lezgi, Russian. Tôn giáo:
Hồi giáo 93%, Chính thống giáo Nga 3%, Chính thống giáo Armenia 2%. Đất đai:
Tổng diện tích 86.600 km2. Diện tích đất 82.629 km2. Địa điểm: Tây Nam Á. Quốc
gia láng giềng: Russian, Georgia phía bắc. Iran phía nam. Armenia phía tây.
Biển Caspian phía đông. Địa thế: Núi lớn Caucasus nằm ở phía bắc. Cao nguyên
Karabakh ở phía tây. Vùng đất thấp dọc theo biên giới Kur-Abas. Thời tiết hầu
hết khô hạn ngoại trừ khu vực bán nhiệt đới phía đông nam. Thủ đô: Baku: 1.590.000
cư dân.
Chính trị và
kinh tế: Loại chính quyền: Cộng hoà. Nguyên thủ quốc gia: Tổng thống Ilham
Aliyev, sinh 24/12/1961, nhậm chức 31/10/2003 (tái bầu năm 2008). Thủ tướng
chính phủ: Artur Rasizade, sinh
26/2/1935, nhậm chức 4/11/2003 (tái bầu tháng 11/2005). Chính quyền địa
phương: 59 tỉnh (Rayons), 11 thành phố, 1 Cộng hoà tự trị. Ngân sách quốc
phòng: 1,5 tỷ USD. Quân đội chính quy: 66.940. Kinh tế: Công nghiệp: sản xuất
dầu, trang thiết bị tìm kiếm dầu, luyện kim, ciment. Nông sản: hạt ngũ cốc,
gạo, sợi bông, nho. Tài nguyên: Dầu lửa, khí đốt, quặng sắt, nhôm. Dự trữ nhiên
liệu: 7 tỷ thùng. Đất nông nghiệp: 21%. Chăn nuôi: trâu bò 2,2 triệu, gà 18
triệu, dê 562.640, heo 19.800, cừu 7,5 triệu. Đánh cá: 4.093 tấn. Cung cấp
điện: 20,6 tỷ Kwh. Phân bố lao động và đóng góp vào Tổng sản lượng quốc gia:
nông nghiệp 38,3%, đóng góp 22%; công nghiệp 12,1%, đóng góp 18%; dịch vụ 49,6%,
đóng góp 60%.
Tài chính và
an sinh: Đơn vị tiền tệ: Đồng Manat (tháng 9/2010: 0,8=1USD). Tổng sản lượng
nội địa: 85,8 tỷ. Bình quân đầu người:10.400. Tăng trưởng: 9,3%. Nhập khẩu: 5,4
tỷ. Bạn hàng: Russian 19,6%, Anh 12,6%, Turkey 9,9%, Đức 8,7%, Singapore 6,2%.
Xuất Khẩu: 13,2tỷ. Bạn hàng: Italy 30,1%, Pháp 11,7%, Czech Republic 10,1%, Đức
7,9%, Hoa Kỳ 7,7%. Du lịch: 190 triệu. Ngân sách quốc gia: 16,8 tỷ. Dự trữ
ngoại tệ: 3,4 tỷ. Dự trử vàng: không có số liệu. Nợ nước ngoài: 1,8 tỷ. Giá cả
tiêu thụ: tăng 1,4%. Vận chuyển: Đường xe lửa: 2.955km. Bằng xe hơi: 479.000
lượt xe, xe hơi cá nhân 126.400. Bằng máy bay: bay 1,2 tỷ km, sân bay 27. Hải
cảng: Baku. Truyền thông: Máy truyền hình 257/1000. Radios 23/1000. Điện thoại:
15,8 triệu/100. Internet: 41,8/100 người sử dụng. Sức khoẻ y tế: Tuổi thọ: nam
62,9, nữ 71,7. Sinh xuất: 17,8/1000 cư dân. Tử xuất: 8,3/1000. Tăng dân số tự
nhiên: 0,9%. Chết trước tuổi trưởng thành: 52,8/1000 trẻ sơ sinh. Nhiểm bệnh
AIDS: 0,2%. Giáo dục: tuổi cưỡng bức đi học 6-17, biết đọc biết viết 99,5%,
trung học 84%, đại học 22%.
Tham gia tổ
chức quốc tế: Liên Hiệp Quốc (UN) và các tổ chức phụ thuộc của nó như Lương
nông Thế giới (FAO), Ngân hàng Thế giới ( IBRD), Lao động Thế giới (ILO), Quỹ
tiền tệ Thế giới (IMF), Hàng hải Thế giới (IMO), Y tế Thế giới (WHO). Các Quốc
gia độc lập vì Thịnh vượng (CIS). Hợp tác An ninh Châu Âu (OSCE).
5. CYPRUS - REPUBLIC OF CYPRUS. (SÍP)
A. Tiến trình phát triển.
Cyprus sau đệ
nhị thế chiến, khuynh hướng hợp nhất với Hy Lạp đã trở thành mối lo ngày càng
gia tăng trong thiểu số người Thổ Nhĩ Kỳ, dẫn đến các cuộc bạo loạn trong những
năm 1955 và 1956. Năm 1959, Anh, Hy Lạp, Thổ Nhĩ Kỳ và lãnh đạo Cuprus chấp
nhận giải pháp độc lập cho đảo quốc này, bằng Hiến pháp bảo đảm người Thổ Nhĩ
Kỳ thường trú tại những nơi căn cứ vào sắc tộc. Hy Lạp và Thổ Nhĩ Kỳ có những
phiên họp chung để giải quyết các vấn đề tôn giáo, giáo dục và nhiều vấn đề
khác. Tổng giám mục Makarious III, người lãnh đạo cuộc vận động hợp nhất được
bầu làm Tổng thống. Và cuối cùng đảo quốc này trở thành quốc gia độc lập ngày
16/8/1960. Tình trạng xung đột giữa người Hy Lạp-Thổ Nhỉ Kỳ ngày càng tăng,
khiến Liên Hiệp Quốc phải gởi lực lượng duy trì hoà bình đến tái lập sự quản lý
uỷ trị năm 1964.
Lực lượng Vệ
binh quốc gia Cyprus, lãnh đạo bởi các sỹ quan Hy Lạp, thực hiện một cuộc đảo
chánh cướp chính quyền ngày 15/7/1974. Năm ngày sau, ngày 20/7 Thổ Nhĩ Kỳ đổ bộ
lên Đảo quốc. Hy Lạp huy động các lực lượng quân sự sẵn sàng chiến đấu, nhưng
không xảy ra các trận đánh lớn. Cuộc dàn xếp ngưng bắn không thành công. Ngày
16/8 quân đội Thổ tiến chiếm khoảng 40% phía Đông Bắc đảo, bất chấp sự hiện
diện của lực lượng duy trì hoà bình Liên Hiệp Quốc. Ngày 8/6/1975, người Cyprus
Thổ Nhĩ Kỳ tổ chức “trưng cầu dân ý” thành lập quốc gia riêng cho người Cyprus
Thổ Nhĩ Kỳ. Năm 1976, bầu Tổng thống và Quốc hội. Khoảng 200.000 người Hy Lạp
đã phải rời khỏi khu vực kiểm soát của
Thổ Nhĩ Kỳ. Hàng ngàn người Thổ trong đó có một số từ đất liền nhanh chóng đến
chiếm lập nghiệp vùng này.
Các nhà lãnh
đạo Thổ Nhĩ Kỳ và Hy Lạp gốc Cyprus bắt đầu cuộc đàm phán trực tiếp vào ngày
4/12/2001 sau hơn 4 năm gián đoạn. Ngày 23/4/2003, biên giới giữa Cyprus Thổ
Nhỉ Kỳ và Cyprus Hy Lạp được mở ra lần đầu tiên kể từ khi phân chia. Trong cuộc
“trưng cầu dân ý” riêng lẻ ngày 24/4/2004, cử tri người Cyprus Thổ Nhỉ Kỳ chấp
nhận một kế hoạch tái thống nhất do Liên Hiệp Quốc bảo trợ, nhưng 76% người
Cyprus Hy Lạp phản đối. Ngày 1/5/2004, phớt lờ sự phân chia, Cyprus trở thành
thành viên chính thức của Liên hiệp Châu Âu. Cuộc bầu cử 56 đại biểu Quốc hội
ngay 21/5/2006, đảng Công nhân Tiến bộ (AKEL) dẫn đầu chiếm 18 ghế, đảnh Dân
chủ Hội tụ (DISI) 18 ghế, và đảng Dân
chủ (DIKO) các đảng nhỏ tranh nhau các ghế còn lại.
Cuộc bầu cử
Tổng thống trong tháng 2/2008, đương kim Tổng thống Tassos Papadopoulos bị loại
từ vòng đầu. Và, Dimitris Christofias giành chiến thắng tại vòng bầu chung cuộc
ngày 24/2/2008 với 54,3%, người Cộng sản đầu tiên trở thành Tổng thống của đảo
quốc.
Lưu ý: Cộng
hoà Thổ Nhĩ Kỳ phía Bắc Cyprus tuyên cáo độc lập bởi nhà lãnh đạo Rauf
Denktash, người Cyprus Thổ Nhĩ Kỳ ngày 15/11/1983. Quốc gia này không được quốc
tế thừa nhận, mặc dù nó có quan hệ thương mại với một số nước. Mehmet Ali
Tallat kế thừa như Tổng thống ngày 24/4/2005. Khu vực Cộng hoà Thổ Nhĩ Kỳ chiếm
3.325 km2, Dân số: 264.172 (gần như tất cả là người Thổ Nhĩ Kỳ). Thủ đô:
Lefkosa (Nicosia).
B. Cyprus ngày nay.
Hiến pháp và
Chính quyền: Hiến pháp có hiệu lực thi hành năm 1960 chỉ rõ Tổng thống nắm
quyền Hành pháp, do dân bầu với nhiệm kỳ 5 năm. Tổng thống sử dụng quyền Hành
pháp thông qua Hội đồng Bộ trưởng do ông ta chỉ định. Quốc hội nắm quyền Lập
pháp, cũng do dân bầu với nhiệm kỳ 5 năm, gồm 80 đại biểu trong đó 56 được bầu
bởi người Cyprus gốc Hy Lạp, và 24 được bầu bởi người Cyprus gốc Thổ Nhĩ Kỳ. Từ
tháng 10/1963, các đại biểu đại diện cho Cộng đồng Thổ Nhĩ Kỳ không còn hiện
diện tại Quốc hội. Do đó, 24 ghế nầy vẫn còn bỏ trống.
Cư dân và
lãnh thổ: Con người: Dân số: 1.102,000, dưới 15 tuổi 16,5%, trên 65 tuổi 10,2%.
Mật độ dân cư: 119,3 người/km2. Thành phố: 70,1%. Sắc tộc: Greek: 77%, Turkist:
18%. Ngôn ngữ: Greek, Turkist (cả hai chính thức), English. Tôn giáo: Chính
thống giáo Hy Lạp 78%, Hồi giáo 18%. Đất đai: Tổng diện tích: 9.251 km2. Diện
tích đất: 9.241 km2. Địa điểm: phía Đông Địa Trung Hải, ngoài khơi bờ Thổ Nhĩ
Kỳ. Quốc gia láng giềng: Gần nhất Thổ Nhĩ Kỳ phía bắc. Syria và Lebanon phía
đông. Địa thế: Hai dãy núi chạy từ đông sang rây, phân cách bởi một đồng bằng
phì nhiêu rộng lớn. Thủ đô: Nicosia: 240.000 cư dân.
Chính trị và
kinh tế: Loại chính quyền: Cộng hoà. Nguyên thủ quốc gia và cầm đầu chính phủ:
Tổng thống Dimitris Christofias, sinh 29/8/1946, nhậm chức 28/2/2008. Chính
quyền địa phương: 6 quận. Ngân sách quốc phòng: 562 triệu USD. Quân đội chính
quy: 10.050. Kinh tế: Công nghiệp: thực phẩm, thức uống, hàng dệt, hóa chất,
sản phẩm kim khí, du lịch. Nông sản: Lúa mạch, nho, rau quả, cam chanh, khoai
tây, olives. Tài nguyên: đồng, quặng hỗn hợp sắt đồng, khoáng chất dùng chế
biến vật liệu cách nhiệt, đất sét màu, đá cẩm thạch, muối, gổ. Đất nông nghiệp:
11%. Chăn nuôi: trâu bò 58.000, gà 3,1 triệu, dê 356.000, heo 460.000, cừu
270.000. Đánh cá: 4.822 tấn. Cung cấp điện: 4,5 tỷ Kwh. Phân bố lao động và
đóng góp vào Tổng sản lượng quốc gia: nông nghiệp 8,5%, đóng góp 4%; công
nghiệp 20,5%, đóng góp 20%; dịch vụ 71%, đóng góp 76%.
Tài chính và
an sinh: Đơn vị tiền tệ: Đồng Euro (tháng 9/2010: 0,78=1USD). Tổng sản lượng
nội địa: 22,8 tỷ. Bình quân đầu người: 21.000. Tăng trưởng: -1,5%. Nhập khẩu: 7,3
tỷ. Bạn hàng: Hy lạp 17,6%, Italy 11,4%, Đức 9%, Anh 8,9%, Israel 6,3%. Xuất
Khẩu: 1,3 tỷ. Bạn hàng: Anh quốc 15,1%, Hy lạp 14,2%, Pháp 7,7%, Đức 4,9%. Du
lịch: 2,7 tỷ. Ngân sách quốc gia: 11,0 tỷ. Dự trữ ngoại tệ: 507 triệu. Dự trữ
vàng: 446.000 ozt. Nợ nước ngoài: 7,3 tỷ. Giá cả tiêu thụ: tăng 0,4%. Vận
chuyển: Bằng xe hơi: 355.000 lượt xe, xe hơi cá nhân: 126.000. Bằng máy bay:
bay 4,1 tỷ km, sân bay: 13. Hải cảng: Famagusta, Lemassol. Truyền thông: Máy
truyền hình: 154/1000. Radio: 406/1000. Điện thoại: 47,6/100. Internet: 49,8/100
người sử dụng. Sức khoẻ y tế: Tuổi thọ: nam 74,9, nữ 80,6. Sinh xuất: 11,4/1000
cư dân; Tử xuất: 6,4/1000. Tăng dân số tự nhiên: 0,5%. Chết trước tuổi trưởng
thành: 9,6/1000 trẻ sơ sinh. Nhiểm bệnh AIDS: không có số liệu. Giáo dục: tuổi
cưỡng bức đi học 6-14, biết đọc biết viết 97,8%, trung học 83%, đại học 19%.
Tham gia tổ chức quốc tế: Liên Hiệp Quốc (UN) và các tổ chức phụ thuộc của nó như Lương nông Thế giới (FAO), Ngân hàng Thế giới ( IBRD), Lao động Tthế giới (ILO), Quỹ tiền tệ Thế giới (IMF), Hàng hải Thế giới (IMO), Y tế Thế giới (WHO). Khối Thịnh vượng Anh (Commonwealth). Liên hiệp châu Âu (EU). Hợp tác An ninh Châu Âu (OSCE).
Tham gia tổ chức quốc tế: Liên Hiệp Quốc (UN) và các tổ chức phụ thuộc của nó như Lương nông Thế giới (FAO), Ngân hàng Thế giới ( IBRD), Lao động Tthế giới (ILO), Quỹ tiền tệ Thế giới (IMF), Hàng hải Thế giới (IMO), Y tế Thế giới (WHO). Khối Thịnh vượng Anh (Commonwealth). Liên hiệp châu Âu (EU). Hợp tác An ninh Châu Âu (OSCE).
6. SYRIA - SYRIAN ARAB REPUBLIC (XI RI).
A. Tiến trình phát triển.
Syria bao gồm
cả một vài nơi mà nền văn minh thời Cổ đại còn được duy trì. Nó là trung tâm
của đế quốc Seleucid, nhưng sau đó bị sáp nhập vào đế quốc La Mã, đế quốc Hồi
giáo Arab, rồi Hồi giáo Ottoman-Thổ Nhỉ Kỳ. Đế quốc Ottoman thống trị Syria hơn
400 năm cho đến khi kết thúc đệ I thế chiến. Hiệp ước Sevres năm 1920, tách một
phần đất trước đây của đế quốc Ottoman-Thổ Nhỉ Kỳ để thành lập hai quốc gia
Syria và Lebanon. Cả Syria và Lebanon được quản lý bởi Pháp do uỷ trị của Hội
Quốc Liên từ năm 1920 đến 1941. Dưới sự chiếm đóng của Pháp, Syria tuyên bố
quốc gia độc lập theo chế độ Cộng hoà (16/4/1941) và thực sự độc lập ngày
17/4/1946. Syria cùng với Ai Cập xâm lược Israel năm 1948. Tháng 2/1958, Syria
lại cùng với Ai Cập lập ra Liên minh Ả Rập nhưng rút ra khỏi Liên minh năm
1961.
Tháng 3/1963,
Đảng Baath Xã hội Chủ nghĩa cấu kết với quân đội cướp chính quyền. Đảng Baath,
một tổ chức của người Arab trở thành đảng hợp pháp duy nhất chiếm ưu thế trong
chính quyền là nhóm thiểu số Alawite. Trong cuộc chiến tranh Arab - Israel
tháng 6/1967, Israel xâm lược và chiếm đóng cao nguyên Golan. Từ đó Syria rút
ra khỏi nơi định cư của Israel. Ngày 6/10/1973, Syria cùng với Ai Cập mở cuộc
tấn công vào Israel. Năm 1974, các quốc gia sản xuất dầu khí Arab đồng ý cấp
cho Syria mỗi năm 1 tỷ USD, hỗ trợ công cuộc đánh lại Israel. Năm 1976, khoảng
30.000 quân sỹ Syria tiến vào Lebanon với cam kết là hoà giải nội chiến. Họ
đánh nhau với du kích quân Palestine và sau đó với lực lượng phòng vệ Thiên
chúa giáo. Syria đứng về phía Iran trong cuộc chiến tranh Iran-Iraq từ năm 1980
đến 1988.
Tháng 4/1981,
quân đội Syria lại giao chiến với quân đội Thiên chúa giáo Lebanon. Sau cuộc
xâm lăng Lebanon ngày 6/6/1982, Israel mở rộng cuộc chiến, cho máy bay phá huỷ
17 hoả tiển phòng không của Syria tại lưu vực Bekaa. Có tới 25 máy bay Syria bị
bắn hạ ngày 9/6 trong khi lâm chiến. Ngày 11/6 Israel và Syria đồng ý ký thoả
ước ngưng bắn. Năm 1983, Syria hậu thuẫn cho bạo loạn PLO, tổ chức từng bước đánh
bật lực lượng Yasir Arafats khỏi Tripoli. Vì vai trò của Syria hổ trợ khủng bố
quốc tế, đưa tới việc cắt đứt quan hệ ngoại giao với Hoa Kỳ, và Anh quốc. Cộng
đồng Âu Châu cũng áp đặt lệnh cấm vận có giới hạn lên Syria năm 1986. Syria lên
án Iraq xâm lăng Kuwait và gởi quân sỉ trợ giúp Liên quân trong chiến tranh vùng vịnh tháng 9/1990.
Năm 1991,
Syria chấp nhận đề nghị của Hoa Kỳ mở hội nghị hoà bình cho khối à Rập- Israel.
Syria thường cùng với Israel bàn thảo các vấn đề liên quan, nhưng quá trình tiến
đến hoà bình còn chậm chạp. Thổ Nhĩ Kỳ tố cáo Syria hỗ trợ các phần tử ly khai
người Kurd. Nguyên Thủ tướng Mahmoud Al-Zoubi tự sát ngày 21/5/2000, sau khi bị
buộc tội tham nhũng. Hafez Al Assad Tổng thống Syria từ 1971 chết ngày
10/6/2000, và được kế vị bởi con trai của ông ta là Bashar Al. Assad. Sau cuộc
xâm lăng Iraq tháng 3/2003, Hoa Kỳ gây sức ép lên Syria phải theo dỏi nghiêm
ngặt những phần tử cực đoan Hồi giáo, và không cung cấp nơi cư trú an toàn cho
các nhà lảnh đạo Iraq chạy trốn sang Syria. Ngày 4/10/2003, máy bay Israel oanh kích một nơi được cho là trại
huấn luyện khủng bố gần Damascus.
Ngày
11/5/2004, viện dẩn lý do Syria còn tiếp tục ủng hộ khủng bố, Hoa Kỳ áp đặt
lệnh cấm vận có giới hạn lên Syria. Việc ám sát nguyên Thủ tướng Lebanon Rafik
al-Hariri bởi xe bom ở Beirut ngày 14/2/2005, làm dấy lên một làn sóng biểu
tình chống đối Syria ở Lebanon. Syria không nhận trách nhiệm vụ đặt bom trên,
nhưng rút hết quân đội ra khỏi Lebanon, ngoại trừ các viên chức tình báo. Syria
luôn hậu thuẩn cho kháng chiến quân Hezbollah chống lại Israel. Trong một nổ
lực tiêu diệt kháng chiến quân Hezbollah, hai tháng 7 và 8/2006 các phi cơ
Israel oanh kích Lebanon, làm cho 180.000 người Lebanon phải chạy tỵ nạn vào
Syria. Ngày 12/8, người tình nghi là dân quân Hồi giáo tấn công Tòa Đại sứ Mỹ ở
Damascus, nhưng bị quân bảo vệ Syria bắn gục.
Trong cuộc
trưng cầu dân ý ngày 27/5/2007, cử tri chấp nhận Tổng thống Bashar al-Assad
thêm một nhiệm kỳ 7 năm nữa. Ngày 6/9, không quân Israel vào một địa điểm ở
Syria nơi mà họ cho rằng Syria và Bắc Triều Tiên đang tiến hành sản xuất vủ khí
hạt nhân. Bạo loạn tái tục trong năm 2008, trong đó có việc giết chết 12 tên
cầm đầu Hezbollah Imad Mugniyah bởi xe bom ở Damascus. Ngày 1/8, tướng Muhammad
Suleiman thân cận của Tổng thống Assad bị bắn một tên bắn tỉa ở một nơi nghỉ
dưởng trên bải biển. Và ngày 27/9, một xe bom phát nổ giết chết 17 người tại
một nơi gần Damascus. Đến giữa năm 2008, có 1,5 triệu người tỵ nạn Iraq đang
tạm trú ở Syria.
Mặc dù quan
hệ giữa Hoa Kỳ và Syria được cải thiện từ năm 2009, Tổng thống Obama gia hạn
nhận lệnh cấm vận đối với Syria trong năm 2010, bởi vì nước nầy tiếp tục ủng hộ
những tay khủng bố quốc tế, và theo đuổi
chương trình vủ khí hạt nhân có sức sát thương lớn.
B. Syria ngày nay.
Hiến pháp và
Chính quyền: Hiến pháp mới Syria được cử tri chấp nhận trong cuộc “trưng cầu
dân ý” ngày 12/3/1973, và có hiệu lực thi hành ngày 14/3. Hiến pháp xác nhận
đảng Phục hưng Xã hội à Rập tức đảng Pa’ath nắm quyền từ năm 1963, như là đảng
lảnh đạo Quốc gia và toàn Xã hội. Quốc hội Nhân dân (Majlis al-Sha’ab) nắm
quyền Lập pháp, với 250 đại biểu có nhiệm kỳ 4 năm, được chia thành 15 khu vực
bầu cử, trong đó có 167 ghế dành riêng cho Mặt trận Quốc gia Tiến bộ, tức Liên
minh các đảng mà đảng Pa’ath là một thành viên. Thủ tướng thành lập chính phủ
bởi lảnh tụ đảng chiếm đa số ghế tại Quốc hội là đảng Pa’ath. Tổng thống do
Quốc hội chỉ định có nhiệm kỳ 7 năm, và phải được dân chúng chấp thuận trong
cuộc ”trưng cầu dân ý”.
Cư dân và
lãnh thổ: Con người: Dân số: 22.198.000, dưới 15 tuổi 35,8%, trên 65 tuổi 3,7%.
Mật độ dân cư: 120,9 người/km2. Thành phố: 55,3%. Sắc tộc: Arab 90%, Kurds,
Armenians, và sắc tộc khác 10%. Ngôn ngữ: Arabic (chính), Kurkish, Armenian.
Tôn giáo: Sunni Muslim 74%, Muslim khác 16%, Thiên chúa giáo 10%. Đất đai: Tổng
diện tích 185.180 km2, Diện tích đất 183.630 km2. Địa điểm: vùng Trung Đông, về
phía đông cuối Địa Trung Hải. Quốc gia láng giềng: Lebanon và Israel phía tây.
Jordan phía nam. Iraq phía đông. Turkey phía bắc. Địa thế: Syria có bờ biển
ngắn trên bờ Địa Trung Hải, sau đó chạy dài về phía đông và nam, với nhiều nơi
thấp bằng phẳng giàu màu mỡ, đan xen giữa sa mạc và núi non. Thủ đô: Damascus.
Thành phố đông dân: Aleppo 2.985.000, Damascus
2.527.000, Homs 1.276.000 cư dân.
Chính trị và
kinh tế: Loại chính quyền: Cộng hoà (dưới sự giám sát của quân đội). Nguyên thủ
quốc gia: Tổng thống Bashar Al. Assad, sinh 11/9/1965, nhậm chức 17/7/2000 (tái
bầu tháng 5/2007). Thủ tướng chính phủ: Muhammad Naji al-Otari, sinh 1944, nhậm
chức 10/9/2003 (tái bầu tháng 4/2007). Chính quyền địa phương: 14 tỉnh. Ngân
sách quốc phòng: 1,8 tỷ USD. Quân đội chính quy: 325.000. Kinh tế: Công nghiệp:
dầu khí, hàng dệt, chế biến thực phẩm, thức uống, thuốc lá, khai thác mỏ
phosphate. Nông sản: lúa mì, lúa mạch, đậu lăng, đậu hoà lan, sợi bông. Tài
nguyên: dầu khí, phosphate, hợp chất chrome, mangan đen, quặng sắt, nhựa đường,
thạch cao, đá cẩm thạch, muối, và thủy điện. Dự trữ nhiên liệu: 2,5 tỷ thùng.
Đất nông nghiệp: 25%. Chăn nuôi: trâu bò 1,2 triệu, gà 24,5 triệu, dê 1,4
triệu, cừu 21 triệu. Đánh cá: 17.166 tấn. Cung cấp điện: 36,5 tỷ Kwh. Phân bố
lao động và đóng góp vào Tổng sản lượng quốc gia: nông nghiệp 17%, đóng góp 9%;
công nghiệp 16%, đóng góp 29%; dịch vụ 67%, đóng góp 62%.
Tài chính và
an sinh: Đơn vị tiền tệ: Đồng Pound (tháng 9/2010: 46,7=1USD). Tổng sản lượng
nội địa: 101,0 tỷ. Bình quân đầu người: 4.600. Tăng trưởng: 5%. Nhập khẩu: 13,3
tỷ. Bạn hàng: Saudi Arabia 12,1%, Trung Quốc 7,7%, Ai Cập 6,1%, U.A. Emirates
5,9%, Italy 4,8%, Ukreine 4,7%, Đức 4,7%, Iran 4,4%. Xuất Khẩu: 11,8 tỷ. Bạn
hàng: Iraq 27,4%, Đức 12,2%, Lebanon 9,5%, Italy 6,6%, Ai Cập 5,3%, Saudi
Arabia 4,8%. Du lịch: 1,8 tỷ. Ngân sách quốc gia: 14,3 tỷ. Dự trử ngoại tệ: 11,1
tỷ. Dự trữ vàng: 830.000 ozt. Nợ nước ngoài: 4,0 tỷ. Giá cả tiêu thụ: tăng 2,9%.
Vận chuyển: Đường xe lửa 2,741 km. Bằng xe hơi: 333.000 lượt xe, xe hơi cá nhân
442.000. Bằng máy bay: bay 2,2 tỷ km, sân bay: 26. Hải cảng: 2 (Latakia,
Tartus). Truyền thông: Máy truyền hình 68/1000 cư dân. Radio 278/1000. Điện
thoại: 17,7/100. Internet: 18/100 người sử dụng. Sức khoẻ y tế: Tuổi thọ: nam
72,1, nữ 77. Sinh xuất: 24,4/1000 cư dân. Tử xuất: 3,7/1000. Tăng dân số tự
nhiên: 2%. Chết trước tuổi trưởng thành: 16,1/1000 trẻ sơ sinh. Nhiểm bệnh
AIDS: 0,1%. Giáo dục: tuổi cưỡng bức đi học 6-14, biết đọc biết viết 83,6%,
trung học 42%, đại học 6%.
Tham gia tổ
chức quốc tế: Liên Hiệp Quốc (UN) và các tổ chức phụ thuộc của nó như Lương
nông Thế giới (FAO), Ngân hàng Thế giới ( IBRD), Lao động Thế giới (ILO), Quỹ
tiền tệ Thế giới (IMF). Hàng hải Thế giới (IMO), Y tế Thế giới (WHO). Liên đoàn
Ả Rập (AL).
7. LEBANON – LEBANESE REPUBLIC (LI BĂNG).
7. LEBANON – LEBANESE REPUBLIC (LI BĂNG).
A. Tiến trình phát triển.
Lebanon được thành lập năm 1920, từ một trong năm khu vực nguyên thuộc đế quốc Ottoman-Thổ Nhĩ Kỳ. Chịu sự quản lý của Pháp do Hội Quốc Liên ủy trị từ năm 1920 đến 1941. Quân đội Pháp rút khỏi Lebanon năm 1946. Hội nghị quốc gia năm 1943, quyết định các chức vụ công cử chia theo cộng đồng tôn giáo khác nhau, trong đó Thiên chúa giáo chiếm đa số. Thập niên 1970, Hồi giáo trở thành đa số, đòi có nhiều chức vụ công cử, và vai trò kinh tế lớn hơn. Từ tháng 5 đến tháng 10/1958, Hoa Kỳ đổ quân vào Lebanon can thiệp các cuộc bạo loạn do Syria hổ trợ. Từ năm 1970 đến 1975, các cuộc bắn giết nhắm vào thường dân Do Thái ngày càng gia tăng, khiến Do Thái mở một loạt các cuộc tấn công vào căn cứ du kích trong nhiều làng. Tháng 3/1978, Quân đội Israel đánh chiếm phía nam Lebanon.
Lebanon được thành lập năm 1920, từ một trong năm khu vực nguyên thuộc đế quốc Ottoman-Thổ Nhĩ Kỳ. Chịu sự quản lý của Pháp do Hội Quốc Liên ủy trị từ năm 1920 đến 1941. Quân đội Pháp rút khỏi Lebanon năm 1946. Hội nghị quốc gia năm 1943, quyết định các chức vụ công cử chia theo cộng đồng tôn giáo khác nhau, trong đó Thiên chúa giáo chiếm đa số. Thập niên 1970, Hồi giáo trở thành đa số, đòi có nhiều chức vụ công cử, và vai trò kinh tế lớn hơn. Từ tháng 5 đến tháng 10/1958, Hoa Kỳ đổ quân vào Lebanon can thiệp các cuộc bạo loạn do Syria hổ trợ. Từ năm 1970 đến 1975, các cuộc bắn giết nhắm vào thường dân Do Thái ngày càng gia tăng, khiến Do Thái mở một loạt các cuộc tấn công vào căn cứ du kích trong nhiều làng. Tháng 3/1978, Quân đội Israel đánh chiếm phía nam Lebanon.
Tháng 4/1980,
Do Thái một lần nữa mở rộng sự lấn chiếm. Khoảng 60.000 người bị giết và hàng
triệu đô la bị ném vào cuộc chiến năm 1975-1980. Các đơn vị Palestine và những
người Hồi giáo Tả khuynh đánh nhau với lực lượng dân quân Thiên chúa giáo
Maronite, Phalange và các tín đồ Thiên chúa giáo khác. Nhiều quốc gia Arab cung
cấp vũ khí và hậu thuẫn chính trị cho các phe nhóm chính trị Hồi giáo khác
nhau, trong khi Israel hỗ trợ lực lượng Thiên chúa giáo. Chỉ trong năm 1976,
Syria gởi tới 15.000 quân vào đánh nhau
với các đơn vị Palestine. Một cuộc ngưng bắn được dàn xếp dưới sự giám sát của
Syria. Ngày 1/4/1981, các cuộc đụng độ mới nỗ ra giữa quân đội Syria và lực
lượng vũ trang Thiên chúa giáo. Đến ngày 22/4 một cuộc chiến khác giữa hai nhóm
chính trị Hồi giáo bắt đầu.
Tháng 7/1981,
máy bay Israel bắn phá Beirut giết chết và làm bị thương trên 800 người. Ngày
6/6/1982, quân đội Israel xâm lăng Lebanon, bằng một cuộc tiến quân hỗn hợp,
hải, lục, không quân vây hảm Beirut. Ngày 21/8/1982, tổ chức tự do Palestine
(PLO) triệt thóat khỏi Tây Beirut, sau khi chịu một cuộc oanh kích nặng nề từ Israel.
Quân đội Israel tiến chiếm Tây Beirut. Ngày 14/9 Tổng thống Lebanon vừa mới đắc
cử là Bashir Gemayel bị ám sát. Ngày 16/9 quân đội Thiên chúa giáo tiến vào hai
trại tỵ nạn, và tàn sát hàng trăm người tỵ nạn Palestine. Một thoả thuận đạt
được ngày 17/5/1983 giữa Lebanon – Israel (nhưng không có Syria) và Hoa Kỳ quy
định rút quân của Israel. Có ít nhất 30.000 quân Syria vẫn còn tại Lebanon, và
quân đội Israel tiếp tục chiếm đóng ở ranh giới an toàn tại phía Nam.
Năm 1983, ôm
bom khủng bố trở thành một lối sống ở
Beirut. Khoảng 50 người bị giết trong một vụ nổ tại toà đại sứ Hoa Kỳ ngày
18/4. Và có tới 244 viên chức Hoa Kỳ cùng với 58 lính Pháp tử vong trong các vụ
tấn công tự sát của người Hồi giáo ngày 23/10/1984. Bắt cóc người nước ngoài
bởi dân quân Hồi giáo đã trở thành phổ biến trong thập niên 1980. Công dân các
nước Anh, Pháp, Hoa Kỳ và Liên bang Xô viết cũng là nạn nhân, đối tượng chúng
nhắm vào, và tất cả phải rời khỏi Lebanon năm 1992. Ngày 22/5/1991, Lebanon và
Syria ký hiệp ước thừa nhận Lebanon như một quốc gia riêng lẻ (từ khi độc lập
năm 1943). Từ 25-29/7/1993, Do Thái thực hiện các cuộc oanh kích và bắn pháo
vào căn cứ du kích, và làng mạc phía Nam Lebanon khiến trên 200.000 cư dân phải
rời khỏi nhà cửa của họ.
Tháng 4/1996,
Israel lại bắn phá vào các nơi nghi ngờ có căn cứ du kích ở phía Nam khiến trên
500.000 thường dân phải thoát chạy khỏi vùng. Ngày 10/5/1997, Giáo hoàng John
Paul II thăm Lebanon. Trong tháng 5 và 6 năm 1998, Lebanon tổ chức bầu cử chính
quyền đầu tiên kể từ năm 1965. Với sự chấp thuận của Syria, Quốc hội nhất trí
bầu Tổng tư lệnh quân đội Lebanon tướng Emile Lahoud làm Tổng thống ngày
15/10/1998. Tổ chức du kích được Iran hậu thuẫn kiểm soát nhiều nơi trong vùng.
Cho đến tháng 9/2004, Syria vẫn còn 20.000 quân ở Lebanon. Dưới sức ép của
Syria, Quốc hội Lebanon tu chỉnh Hiến pháp kéo dài nhiệm kỳ Tổng thống của
tướng Lahoud thêm 3 năm nửa. Ngày 14/2/2005, nguyên Thủ tướng Rafiq al-Hariri
bị ám sát bằng bom xe, làm dấy lên một làn sóng biểu tình đòi quân đội Syria
phải rời khỏi Lebanon.
Không bao lâu
sau đó, Syria bắt đầu rút quân, chỉ để lại 14.000 quân, và các cơ sở tình báo.
Đến cuối tháng 4, Syria đã rút hết quân đội khỏi Lebanon. Trong tháng 7/2006,
du kích Hizbollah bắt cóc 2 binh sỉ Israel, Israel tung ra một cuộc tấn công
quân sự với quy mô lớn bằng hàng loạt vụ ném bom tàn phá các cơ sở hạ tầng dân
sự ở Lebanon. Có hơn 1.200 người phần lớn là thường dân Lebanon bị giết. Ngày
21/11/2006, Pierre Gemayel, Bộ trưởng Công nghiệp, một người Thiên cúa giáo nổi
tiếng thường chỉ trích Syria bị ám sát. Sau khi 5 vị Bộ trưởng trong Nội các từ
chức, cùng các vụ biểu tình chống chính phủ lại nỗi lên khắp nơi. Ngay tại
Beirut có khoảng 800.000 người bằng ¼ dân số Lebanon xuống đường đòi Thủ tướng
Fouad Siniora từ chức.
Ngày 25/1/2007,
Hội nghị Quốc tế các nước cấp viện nhóm họp tại Paris cam kết sẽ tài trợ 7,6 tỷ
quỷ tái thiết cho Syria. Sau hơn 3 tháng đánh nhau làm trên 400 người chết,
quân đội Lebanon đã đánh bại du kích quân Hồi giáo tại Nahr al-Bared, phía bắc
Tripoli, nơi có trại tỵ nạn Palestine. Một thỏa ước chia xẻ quyền hành giữa Thủ
tướng Siniora và phiến quân Hezbollah đạt được ngày 21/5/2008, làm giảm bớt sự
kình dịch của các phe đảng chính trị mở đường cho Tổng Tư lệnh quân đội trở
thành Tổng thống chấm dứt 18 tháng bế tắt. Đến giữa năm 2008, Lực lượng duy trì
hòa bình Liên Hiệp Quốc vẫn còn 12.300 tại Lebanon. Được sự hổ trợ của phương
tây, Mặt trận 14 tháng 3 do Saad Hairi cầm đầu giành chiến thắng trong cuộc bầu
cử Quốc hội ngày 7/6/2009.
Sau nhiều
tháng bất ổn, ngày 9/11/2009, Saad Hairi chính thức nhậm chức Thủ tướng và ra
mắt Nội các.
B. Lebanon ngày nay.
Hiến pháp và
Chính quyền: Hiến pháp đầu tiên của Lebanon từ thời Pháp cai quản theo Ủy trị
của Hội Quốc Liên năm 1926. Nó được tu chỉnh 5 lần trong các năm 1927, 1929,
1943, 1947, và 1990. Hiến pháp trao quyền Lập pháp trao cho Quốc hội, do dân
bầu, và Tư pháp độc lập trong xét xử. Năm 1995, Quốc hội tăng nhiệm kỳ của Tổng
thống từ 6 năm lên 9 năm. Tổng thống nắm quyền Hành pháp, một Thủ tướng và một
Nội các do Tổng thống và Quốc hội thỏa thuận. Hệ thống chính trị được thay đổi
để cân bằng lợi ích cuả Cộng đồng. Một loạt các quy ước, tập tục tuy không đưa
vào Hiến pháp nhưng cũng có hiệu lực cưởng hành. Chẵng hạn, Tổng thống luôn là
người Thiên chúa giáo, thì Thủ tướng phải là người Hồi giáo hệ Sunni, và Chủ
tịch Quốc hội phải là người Hồi giáo hệ Shia. Không có đảng phái chính trị ở
Lebanon. Ngày 21/9/1990, Tổng thống ký tu chỉnh Hiến pháp lập ra nền đệ II Cộng
hòa, cơ cấu lại cơ quan Hành pháp như một tập hợp quyền hành, giảm bớt quyền từ
Tổng thống, tăng thêm quyền Thủ tướng, giải thể Quốc hội, và bầu ra Hội đồng Bộ
trưởng.
Cư dân và
lãnh thổ: Con người: Dân số: 4.125.000, dưới 15 tuổi 23,4%, trên 65 tuổi 8,8%.
Mật độ dân cư: 403,2 người/km2. Thành phố: 87,1%. Sắc tộc: Arab 95%, Armenia
4%. Ngôn ngữ: Ả Rập (Chính), Pháp, Anh, Armenian. Tôn giáo: Hồi giáo 60%, Thiên
chúa giáo 39%. Đất đai: Tổng diện tích 10.400 km2. Diện tích đất 3.950 km2. Địa
điểm: Ở vùng Trung Đông, cuối bờ phía đông biển Địa Trung Hải. Quốc gia láng
giềng: Syria phía đông. Israel phía nam. Địa thế: Dãi đất dọc theo bờ biển hẹp,
và hai dãy núi chạy dài từ bắc đến nam, sát bình nguyên màu mỡ Bequa. Sông
Lilani chảy về phía nam băng qua bình nguyên, quay về phía tây rồi chảy vào Địa
Trung Hải. Thủ đô: Beirut: 1.909.000 cư dân.
Chính trị và
kinh tế: Loại chính quyền: Cộng hoà. Nguyên thủ quốc gia: Tổng thống Michel
Suleiman, sinh 21/11/1948, nhậm chức: 25/5/2008. Thủ tướng chính phủ: Saad Hariri,
sinh 18.4.1970, nhậm chức 9/11/2009. Chính quyền địa phương: 5 chính quyền giáo
phái tự quản. Ngân sách quốc phòng: 911 triệu USD. Quân đội chính quy: 59.100.
Kinh tế: Công nghiệp: ngân hàng, chế biến thực phẩm, hóa chất và hầm mỏ, xi măng, hàng dệt, nử trang. Nông sản: cam, chanh, Olives,
khoai tây, thuốc lá, rau quả. Tài nguyên: đá vôi, quặng sắt, muối, nước. Đất nông nghiệp: 16%. Chăn nuôi: trâu bò
77.000, gà 35 triệu, dê 495.000, heo 15.000, cừu 340.000. Đánh cá: 4.614 tấn.
Cung cấp điện: 9 tỷ Kwh. Phân bố lao động và đóng góp vào Tổng sản lượng quốc
gia: nông nghiệp 7%, đóng góp 2%; công nghiệp 31%, đóng góp 31%; dịch vụ 62%,
đóng góp 67%.
Tài chính và
an sinh: Đơn vị tiền tệ: Đồng Pound (tháng 9/2010: 1.503=1USD). Tổng sản lượng
nội địa: 54 tỷ. Bình quân đầu người: 13.200. Tăng trưởng: 6,9%. Nhập khẩu: 16,4
tỷ. Bạn hàng: Italy 11,4%, Hoa kỳ 9,2%, Pháp 7,6%, Đức 5,9%. Xuất Khẩu: 3,5 tỷ.
Bạn hàng: Syria 26,4%, United Arab Emirate 11,8%, Thụy sỉ 7,9%, Saudi Arabia
5,6%, Turkey 4,4%. Du lịch: không có số liệu. Ngân sách quốc gia: 11,4 tỷ. Dự
trữ ngoại tệ: 18,5 tỷ. Dự trữ vàng: 9,2 triệu ozt. Nợ nước ngoài: 15,8 tỷ. Vận
chuyển: Đường xe lửa: 400 km. Bằng xe hơi: 1,4 triệu lượt xe, xe hơi cá nhân
102.400. Bằng máy bay: bay 2,2 tỷ km, sân bay: 5. Hải cảng: 3, Beirut, Tripoli,
Sidon. Truyền thông: Máy truyền hình: 355/1000 cư dân. Radio: 907/1000. Điện
thoại: 17,8/100. Internet: 23,7/100 người sử dụng. Sức khoẻ y tế: Tuổi thọ: nam
73,3, nữ 76,4. Sinh xuất: 15,1/1000 cư dân; Tử xuất: 6,5/1000. Tăng dân số tự
nhiên: 0,8%. Chết trước tuổi trưởng thành: 16,4/1000 trẻ sơ sinh. Nhiểm bệnh
AIDS: 0,1%. Giáo dục: tuổi cưởng bức đi học 6-14, biết đọc biết viết 88,6%
trung học 89%, đại học 38%.
Tham gia tổ
chức quốc tế: Liên Hiệp Quốc (UN) và các tổ chức phụ thuộc của nó như Lương nông Thế giới (FAO), Ngân hàng Thế giới
( IBRD), Lao động Thế giới (ILO), Quỹ tiền tệ Thế giới (IMF), Hàng hải Thế giới
(IMO), Y tế Thế giới (WHO). Liên đoàn Ả Rập (AL).
1.Tiến trình phát triển.
Israel nằm ở
Tây Á, ngã tư vùng lưỡi liềm màu mỡ thời Cổ đại. Nó bao gồm các chứng tích nông
nghiệp và thành phố lầu đời nhất thế giới. Nền văn minh cao hơn xuất hiện ở
thiên niên kỷ thứ ba Trước công nguyên (TCN). Bộ tộc Hebrew đầu tiên đến đây
khoảng Thiên niên kỷ thứ hai TCN. Dưới sự cai trị của vua David, và những người
kế vị ông ta khoảng từ năm 1000 đến năm 597 TCN, Do Thái giáo phát triển mạnh
trong những điều kiện an bình. Sau đó nó bị xâm lăng bởi Babylon, Persia và
Greek. Đến năm 168 TCN, vương quốc Do Thái được phục hồi, nhưng lại bị đế quốc La
Mã thống trị từ thế kỷ sau đó. Các cuộc
khởi nghĩa của người Do Thái từ năm 70 Sau công nguyên (SCN) đến năm 135 đều bị
dìm vào biển máu, và tên Hebrew đổi tên thành Judea Palestine, tên của bộ tộc
Philistines, từng cư trú tại bờ biển sớm hơn.
Người Hồi
giáo Ả Rập xâm chiếm Palestines năm 636. Ngôn ngữ Ả Rập và đạo Hồi khuynh đảo
vùng chiếm cứ, nhưng thiểu số người theo Do Thái vẫn tồn tại. Từ thế kỷ thứ 11,
nó lại được cai trị bởi các đế quốc không phải người Ả Rập, đầu tiên là
SelJuks, rồi Mamluks và sau cùng là Ottomans-Thổ Nhỉ Kỳ. Gần 200 năm
(1098-1291) vùng đất nầy là bãi chiến trường của đội quân Thiên chúa giáo dưới
cái gọi là "thập tự chinh" tái chiếm vùng đất thánh. Sau 4 thế kỷ bị
đế quốc Ottomans-Thổ Nhĩ Kỳ cai trị, dân số Do Thái giảm dần đến năm 1785 chỉ
còn 350.000. Anh Quốc chiếm vùng nầy năm 1917. Tại đây, nó được cam kết bởi
tuyên bố Balfour “sẽ cấp cho người Do Thái thành lập quốc gia”. Năm 1920, khu
vực này được Hội Quốc Liên uỷ thác cho Anh quốc cai trị. Năm 1922, phần đất
phía Đông của Jordan được tách riêng.
Người Do Thái
vào định cư ở đây từ cuối thế kỷ 19, tăng nhanh trong thập niên 1930 từ. Người
à Rập đông hơn từ Syria và Lebanon cũng đến đây lập nghiệp. Sự mâu thuẫn giữa
người định cư Do Thái và Ã Rập phát triển thành bạo loạn trong những năm 1920,
1921, 1929 và 1936. Năm 1947, Đại hội đồng Liên Hiệp Quốc chấp thuận chia phần
đất Palestine, một phần thành lập quốc gia gồm người “Ã Rập”, và phần khác
thành lập quốc gia người “Do Thái”. Ngày 14/5/1948, người Do Thái tuyên bố thành
lập quốc gia Israel, còn người à Rập thì phản đối việc chia đất. Sáu nước
Egypt, Jordan, Syria, Lebanon, Iraq và Saudi Arabia xâm lăng vùng đất được cấp
cho Do Thái, cản trở việc thành lập quốc gia Israel nhưng thất bại. Thoả ước
ngưng bắn riêng rẽ được ký với các quốc gia à Rập năm 1949.
Jordan chiếm
đóng bờ phía Tây, Egypt chiếm Gaza, nhưng không ban cấp quyền tự trị cho
Palestine. Sau nhiều lần bị các tên khủng bố cực đoan tấn công, ngày
29/10/1956, với sự trợ giúp của các lực lượng Anh và Pháp, Israel xâm lăng
Sinai, Egypt. Ngày 6/11, Liên Hiệp Quốc dàn xếp một cuộc ngưng bắn và gởi lực
lượng giữ gìn hòa bình đến giám sát. Ngày 19/5/1967, Ai Cập yêu cầu lực lượng
này rút khỏi nơi đóng quân, rồi tung quân tái chiếm dãi Gaza và đóng cửa vịnh
Aqaba không cho tàu bè đến Israel. Trong cuộc chiến tranh 6 ngày diễn ra từ
ngày 5/6/1967, Israel không chỉ chiếm lại dải Gaza mà còn chiếm bán đảo Sinai,
kênh đào Suez, phía đông Jerusalem, Cao nguyên Golan của Syria, và bờ phía Tây
của Jordan. Cuộc chiến chấm dứt ngày 10/6 do sự sắp xếp của Liên Hiệp Quốc.
Ngày
6/10/1973, Ai Cập và Syria tấn công Do Thái, Do Thái chống trả đẩy lùi lực
lượng Syria, rồi vượt qua kênh đào Suez đánh Ai Cập. Ngày 24/10, hai bên ngưng
bắn, lực lượng giữ gìn hoà bình của Liên Hiệp Quốc được gởi tới giám sát. Ngày
18/01/1974, một thoả ước khác được ký, theo đó Israel từng bước rút quân khỏi
bờ Tây kênh đào Suez. Ngày 3/7/1976, lực lượng Israel đột kích Entebbe, Uganda
và giải cứu 103 con tin, những người đã bị các tên khủng bố người Ả Rập và Đức
bắt cóc. Từ năm 1948 đến năm 1977, các vị Thủ tướng Israel như David
Ben-Gurion, Golda Meir, và Yitzhak Rabin đều thực hiện quyết sách Xã hội Chủ
nghĩa hiện đại. Năm 1977, cánh Bảo thủ đối lập lãnh đạo bởi Menachem Begin được
bầu vào chức vụ cầm quyền. Tổng thống Ai Cập
Anwar Al Sadat thăm viếng Jerusalem tháng 11/1977.
Tháng 3/1978,
sau khi bị tổ chức khủng bố có căn cử ở Lebanon tấn công, Israel đánh chiếm
phía nam Lebanon. Theo thỏa thuận, Israel phải rút quân lúc lực lượng giữ gìn
hòa bình Liên Hiệp Quốc đến. Thế nhưng, Israel vẫn ngấm ngầm trợ giúp lực lượng
dân quân Thiên chúa giáo Lebanon. Ngày 26/3/1979, Ai Cập và Israel chính thức
ký hiệp ước hoà bình kết thúc 30 năm chiến tranh, lập quan hệ ngoại giao giữa
hai nước. Israel hứa sẽ trả bán đảo Sinai cho Ai Cập năm 1982. Tháng 7/1980,
Israel xác định toàn khu vực Jerusalem là thủ đô của họ bao gồm cả phần đất
phía đông Jerusalem. Ngày 7/6/1981 không lực Israel phá huỷ một lò phản ứng hạt
nhân của Iraq gần Baghdad, với lý do có thể Iraq sẻ dùng lò phản ứng hạt nhân
này để sản xuất vũ khí hạt nhân.
Ngày 6/6/1982
Israel tấn công Lebanon, lực lượng PLO phải triệt thoái khỏi Tây Beirut sau
trận mưa bom của không lực Do Thái. Ngày 14/8/1982, sau khi tân Tổng thống
Bashir Gemagel bị ám sát, quân đội Israel tiến chiếm Tây Beirut. Ngày 16/8
trong khi quân Israel tiến sâu vào nội địa, thì dân quân Thiên chúa giáo
Lebanon tiến vào hai trại tị nạn sát hại hàng trăm người Palestine ở phía Tây
Beirut. Năm 1989 bạo động khắp nơi trong những nơi quân đội Do Thái chiếm đóng
ở dải Gaza, và bờ phía Tây công khai thách thức quân đội Do Thái. Do Thái trả
đũa bằng biện pháp vũ lực mạnh mẽ. Ngày 8/10/1990 cảnh sát Do Thái và những
người Palestine ném đá, đánh nhau xung quanh thánh đường Al - Aqsa trong khuôn
viên Jerusalem, làm hơn 20 người Palestine bị thiệt mạng.
Trong chiến
tranh vùng vịnh Persia đầu năm 1991, Iraq phóng hoả tiển mang đầu đạn hạt nhân
Scud vào Israel. Đảng Lao động của Yitzhak Rabin chiến thắng trong cuộc bầu cử
ngày 23/6/1992. Các cuộc đàm phán hoà bình đã đưa tới một thoả ước lịch sử giữa
Israel và PLO trong tháng 9/1993. PLO thừa nhận quyền tồn tại của Israel.
Israel thừa nhận PLO như là đại diện chính thức của Palestine. Sau đó, cả hai
bên ký một thoả ước giới hạn quyền tự trị của Palestine, và bờ phía Tây cùng
dãi Gaza. Ngày 25/7/1994 tại Wasshington DC, Israel và Jordan ký tuyên bố chung
chấm dứt tình trạng chiến tranh giữa hai nước, và một hiệp ước hoà bình chính
thức sẻ được ký vào ngày 26/10. Ả Rập và những người cực đoan Do Thái lại tái
diển các mối bất hoà trong quá trình đàm phán hoà bình.
Một tay súng
Do Thái bắn vào các người Ả Rập trong khi họ đang hành lễ tại thánh đường ở
Hebron giết hại ít nhất 29 người trước khi anh ta tự sát ngày 25/2/1994. Vào
ngày 4/11/1995, một người Do thái giáo chính thống ám sát Thủ tướng Rabin như
một cảnh tỉnh hoà bình ở Tel Avis. Kế vị Rabin là Shimon Peres, chịu nhiều sự
chỉ trích bởi một loạt những cuộc tấn công cảm tử và phóng rocket chống Do Thái
từ lực lượng dân quân Hồi giáo. Tháng 4/1996, Israel tấn công vào các cứ điểm
nghi ngờ là căn cứ địa của quân du kích ở phía nam Lebanon. Dưới khẩu hiệu về
sự an toàn của người Do Thái, ứng viên bảo thủ đảng Likud, Benjamin Netanyahu,
được bầu làm Thủ tướng ngày 29/5. Ngày 24/9/1996, Do Thái đào một chiến hào
phong thủ gần nơi cúng tế của người Hồi giáo ở Jerusalem.
Thế là, bạo
động bắt đầu nhiều ngày giữa quân đội Do Thái và những người biểu tình
Palestine. Tổng thống Hoa Kỳ, Bill Clinton dàn xếp một cuộc họp giữa Thủ tướng
Netanyahu và lãnh đạo PLO Yasir Arafat. Sau đó vào ngày 1 và 2/10 thương thảo
hoà bình lại tiếp tục. Hai cuộc nổ bom tự sát tại một phiên chợ Jerusalem ngày
30/7/1997 làm 15 người chết và 170 bị thương. Ngày 4/3/1998 bất chấp sự phản
đối của Netanyahu, Quốc hội bầu Ezer Weizman làm Tổng thống. Qua trung gian hoà
giải của Tổng thống Clinton, một Hiệp ước tạm thời được ký bởi Netanyahu và Arafat tại toà Bạch ốc Hoa
Kỳ. Ngày 23/10/1998, Israel sẽ trao trả nhiều vùng bờ phía Tây cho Palestine,
và đổi lại Palestine phải bảo đảm sự an toàn cho người Do Thái ở những nơi
chiếm đóng.
Tuy nhiên,
các cuộc thương thảo lại bế tắt cho đến tháng 9/1999. Netanyahu thất cử trong
cuộc bầu cử, lãnh tụ đảng Lao động Ehud
Barak làm Thủ tướng Do thái ngày 17/5/2000. Israel đẩy nhanh tiến trình rút
quân ra khỏi phía Nam Lebanon ngày 24/5/2000. Cuộc thương thảo giữa Barak và
Arafat tại Hoa Kỳ từ ngày 11-25/7 thất bại. Một làn sóng bạo động bắt đầu cuối
tháng 9 trong các vùng Israel và Palestine cư trú. Barak thất bại trong cuộc
bầu cử. Ngày 7/3/2001, một người theo đường lối cứng rắn là Ariel Sharon nhậm
chức Thủ tướng. Sharon hướng đến một chính quyền thống nhất quốc gia với Peres
là ngoại trưởng. Máu đổ, chết chóc tăng nhanh trong suốt mùa hè. Ngày 1/6 người ôm bom Palestine đâm
vào một quán rượu ở Tel Aviv giết chết 20 người, và ngày 9/8, tại một quán ăn
Jerusalem giết chết 15 thực khách.
Quân đội
Israel tiến hành các cuộc tấn công trả đũa nhắm vào vùng kiểm soát của
Palestine, và thực hiện một chiến dịch ám sát nhắm vào hàng chục tên nghi ngờ
là kẻ khủng bố. Việc ám sát một Bộ trưởng trong Nội các của Sharon là Rehavam
Zeevi ngày 17/10, bởi một tay súng Palestine dấy lên một làn sóng bạo động
khác. Chỉ việc ôm bom tự sát ngày 1-2/12, cũng đã giết chết 25 người Do Thái.
Sharon thúc buộc Arafat phải trấn áp mạnh tay hơn với các tay dân quân Hồi
giáo. Quân đội Do Thái tự do hành quân nhắm vào các cứ điểm của dân quân
Palestine, Bộ chỉ huy tối cao của Arafat, và tất cả nơi nào nghi ngờ có bom
khủng bố ẩn náu. Ngày 12/12, sau khi một tay súng bờ phía Tây bắn giết 10 người
Do Thái trên một chiếc xe bus, Israel cắt đứt mọi mối quan hệ với Arafat.
Ngày
4/1/2002, Israel chận bắt một tàu chở vũ khí từ Iran đến cho Palestine, Israel
lại tung ra các cuộc hành quân mới. Ngày 29/3/2002, một tên ôm bom tự sát giết
chết 26 người đang cử hành lễ tưởng niệm giải phóng Do Thái khỏi ách nô lệ của
Ai Cập tại Passover, ở Netanya. Một cuộc đánh nhau tại trại tỵ nạn Jenin giết
chết 23 lính Do Thái và ít nhất 50 dân thường Palestine. Đầu tháng 5, Israel
rút quân nhưng làn sóng ôm bom tự sát lại xảy ra, khiến quân đội Do Thái tái
chiếm bờ phía Tây từ ngày 21-27/6. Cũng trong tháng 6/2002, chính quyền Do Thái
cho xây một bức tường ngăn cách ở bờ phía Tây (West Bank) giới hạn người
Palestine tiếp cận với người Do Thái. Ngày 20/9/2002, Arafat bị đặt vào một
tình trạng cô lập tại Bộ chỉ huy của ông ta ở Ramallah khi quanh ông ta đều bị
san bằng bởi hoả lực của Do Thái.
Ngày 29/9
quân đội Do Thái rút khỏi vùng. Ngày 30/4/2003, dưới sự bảo trợ của Hoa Kỳ một
lộ trình hòa bình cho vùng Trung Đông được ký kết, nhưng tiến triển chậm. Ngày
1/9, Israel tuyên chiến với khủng bố Hamas. Ngày 22/3/2004, Israel phóng hỏa
tiển vào thành phố Gaza giết chết Sheikh Ahmed Yassin người sáng lập và cũng là
nhà lảnh đạo Hamas. Ngày 17/4, Israel cũng giết luôn người kế vị Yassin là
Abdel Aziz al-Rantisi. Ngày 31/8/2003, người ôm bom tự sát của Hamas cho nổ hai
xe buýt tại Beersheba giết chết 16 người. Sharon cải tổ nội các bao gồm cả đảng
Lao động, mở rộng vùng lấn chiếm định cư ra bên ngoài dải Gaza bất chấp sự phản
đối của các thành viên trong đảng Likud của ông ta. Kể từ tháng 9/2000, các
cuộc đánh nhau đã giết chết 4.100 người, trong đó 900 của Do Thái và 3200 của
Palestine.
Ngày
9/7/2004, trong một phán quyết, tòa án Quốc tế tuyên bố việc Israel xây bức
tường nầy là vi phạm luật quốc tế. Ngày 11/11/2004, Arafat chết, và được kế tục
bởi Mahmoud Abbas trong tháng 1/2005. Tháng 2/2005, Thủ tướng Do Thái là Ariel
Sharon và Chủ tịch Mahmoud Abbas đồng ý một cuộc ngưng bắn giữa hai bên, được
hy vọng như một quá trình thương thảo sắp bắt đầu. Trong tháng 8/2005, quân đội
và cảnh sát Israel cho di dời 8.500 người định cư Do Thái ra khỏi Dải Gaza theo
thỏa ước giữa Israel và Palestine. Các thành viên cánh hữu phản đối hế hoạch,
khiến Sharon và Phó của ông ta là Ehud Olmert thành lập đảng mới Kadima Ngày
4/1/2006, Sharon bị đột quỵ, Olmert trở thành Thủ tướng. Đảng Kiadima giành
thắng lợi trong cuộc bầu cử, và Olmert thành lập chính phủ Liên hiệp.
Ngày
25/6/2006, Dân quân Hamas từ Gaza, và quân Hezbollah từ Lebanon mở các cuộc tấn
công nhắm vào quân đội Israel. Ngày 12/7, khi Hezbollah bắt cóc 2 binh sỉ Do
Thái thì không quân và bộ binh Do Thái đánh thẳng vào Gaza, nhưng khốc liệt
nhất là mặt trận phía Bắc. Ngày 14/8, khi lực lượng duy trì Liên Hiệp Quốc đến
giám sát cuộc ngưng bắn thì có khoảng 1.150 người Lebanon, 200 người Palestine,
và 150 người Do Thái bị thiệt mạng. Việc không đạt tới chiến thắng quân
Hezbollah khiến Tổng Tư lệnh quân đội, tướng Dan Hulutz từ chức ngày 16/1/2007,
Olmert cũng bị chỉ trích không đủ khả năng lảnh đạo cuộc chiến. Ngày 15/7,
Peres trở thành Tổng thống, sau khi người tiền nhiệm của ông ta là Moshe Katsav
bị tố cáo tội hiếp dâm, và được đặc miển với bản án nhẹ hơn tù treo, nhưng buộc
phải từ chức.
Olmert bị
điều tra liên quan đến việc tham nhủng, ngày 30/7/2008, ông ta tuyên bố sẽ từ
chức khi đảng Kadima chọn được người thay thế. Ngày 17/9, Bộ trưởng Ngoại giao
Tzipi Livni được bầu làm lảnh tụ đảng, và thành lập chính phủ mới ngày
22/9/2008. Do bất ổn nội các kéo dài, Tzipi Livni tuyên bố sẽ bầu cử Quốc hội
vào ngày 10/2/2009. Từ kết quả bầu cử, ngày 31/3/2009, Netanyahu thành lập chính
phủ
Liên hiệp gồm
Likud, Lao động, và Liên hiệp Quốc gia. Sau 20 tháng gián đoạn, qua sự trung
gian của Hoa Kỳ cuộc thương thảo hòa bình trực tiếp giữa Israel và Palestine
được tái lập ngày 2/9/2010.
Lưu ý.
Phần đất của
Palestine bao gồm cả dãi Gaza và bờ Tây, cả hai đều bị Israel chiếm đóng năm
1967. Từ năm 1996, chính quyền Palestine trách nhiệm quản lý hành chánh cả hai
vùng. Tại cuộc bầu cử ngày 20/1/1996, nhà lảnh đạo tổ chức Giải phóng Palestine
(PLO) là Yasir Arafat được bầu làm Tổng thống cho đến khi ông ta chết ngày
11/11/2004. Kế vị Arafat, là Mahmoud Abbas nhà lảnh đạo Phong trào Fatah. Trong
cuộc bầu cử ngày 1/9/2005, Abbad đắc cử Tổng thống. Và, tại cuộc bầu cử Quốc
hội ngày 25/1/2006, lảnh tụ Du kích quân Hamas giành thắng lợi, dẫn đến một
cuộc tranh giành quyền lực giữa Fatas và Hamas. Tháng 6/2007, trong một trận
đánh khốc liệt, quân đội Israel đánh bật Hamas ra khỏi dãi Gaza, nhưng Abbas
vẫn giữ được bờ Tây.
1. Dãi Gaza
được nhiều người biết, nó trải dài về hướng Đông bắc chừng 40 km từ bán đảo
Sinai, Địa Trung Hải ở phía Tây, và Israel ở phía Đông. Tổ chức Palestine đảm
trách quản lý hành chánh, nhưng về mặt an ninh thì do Israel kiểm soát. Gần như
tất cả cư dân ở Gaza là người Arab Palestine. Có hơn 35% trong số họ sống trong
các trại tỵ nạn. Dân số (2008): 1.500.202. Diện tích: 359 km2. Do Thái chiếm
Gaza năm 1967 từ Ai Cập (Egypt) và rút quân khỏi đây tháng 5/1994. Các thoả ước
giữa Palestine (PLO) và Israel trong năm 1993 và 1994 quy định cho Gaza được có
Chính quyền tự quản tới khi có quyết định chung cuộc từ các cuộc đàm phán. Ngày
22/8/2005, Do Thái cưởng bức tất cả 9.000 người Do Thái phải rời khỏi nơi định
cư trên dải Gaza.
Do Thái cũng
cho xây bức tường dọc theo biên giới ngăn chận sự xâm nhập của người Palestine.
Sau khi Hamas tiếp quản, ngày 19/9/2007, Do Thái tuyên bố chiến tranh với Gaza,
tăng cường quân sỉ, và gây sức ép về kinh tế ngăn chận, cô lập Hamas tiếp xúc
với thế giới bên ngoài. Tháng 1/2008, Do Thái còn cho xây một bức tường ngăn
cách giữa Gaza và Ai Cập.
2. Bờ Tây nằm
ở phía Tây sông Jordan và biển Dead. Nó được bao quanh bởi Jordan về phía Đông,
Do Thái về phía Tây bắc. Chính quyền Palestine quản lý thành phố ở phía Nam,
nhưng quân đội Israel kiểm soát trên nhiều nơi kể cả vùng định cư Do Thái. Dân
số (2008): 2.407.681. Diện tích: 5.857 km2. Israel chiếm bờ phía Tây từ Jordan
trong cuộc chiến tranh 1967. Hội nghị thượng đỉnh khối Ả Rập năm 1974, chỉ rõ
PLO là người duy nhất đại diện khối Ả Rập tại bờ phía Tây. Năm 1988, chấm dứt
mọi sự ràng buộc về luật pháp và quản trị trong vùng. Jericho được trả lại cho
Palestine cai quản tháng 5/1994. Một thoả hiệp giữa Israel và PLO, mở rộng
quyền tự trị cho Palestine tại bờ phía Tây được ký ngày 28/8/1995. Các thoả ước
sau đó trao cho Palestine kiểm soát , hoặc chia xẻ với Israel khoảng 40% vùng
phía Tây này.
Tháng 6/2002,
chính quyền Do Thái bắt đầu xây một bức tường trên bờ phía Tây hạn chế người
Palestine đến gần khu vực người Do Thái, giảm thiểu được các vụ ôm bom tự sát.
Trong một quyết định của tòa án Quốc tế ngày 9/7/2004, phán rằng việc Do Thái
xây tường cản là vi phạm luật Quốc tế.
B. Israel ngày nay.
Hiến pháp và
Chính quyền: Israel tuyên bố lập quốc ngày 14/5/1948, theo chế độ Cộng hòa,.
Năm 1950, Quốc hội (thành lập năm 1949), thông qua luật phân định quyền hạn,
nhiệm kỳ của Quốc hội, Tống thống, Nội các, tùy theo chức năng ban hành các
luật lệ trong phạm vi thẩm quyền. Tất cả cuối cùng tập hợp lại tạo thành Luật
Hiến pháp. Đó là các luật cơ bản: Luật Quốc hội (1958), Luật Đất đai (1960),
Luật Tổng thống (1964), Luật Kinh tế (1975), Luật Quân sự (1976), Luật
Jerusalem, Thủ đô của Israel (1980), Luật Tư pháp (1984), Luật Kiểm toán
(1988), Luật Tự do và Phẩm giá Con người (1992), Luật Nghề nghiệp (1994), và
Luật Quản lý Chính quyền (2001). Theo đó thì: Tổng thống do Quốc hội bầu với 1
nhiệm kỳ duy nhất 7 năm. Quốc hội gồm 120 đại biểu, do dân bầu trực tiếp (1 bầu
cho đảng, 1 bầu cho Ứng viên Thủ tướng) theo khu vực bầu cử có nhiệm kỳ 4 năm.
Thủ tướng do Quốc hội bầu, từ ứng viên Thủ tướng có trên 50% phiếu bầu của cử
tri. Nếu có trên 2 ứng viên và không có ứng viên nào đạt trên 50% phiếu bầu,
thì Quốc hội phải bầu vòng chung cuộc 15 ngày sau đó.
Cư dân và
lãnh thổ: Con người: Dân số: 7.353.000, dưới 15 tuổi 27,8%, trên 65 tuổi 10%.
Mật độ dân cư: 339,8 người/km2. Thành phố: 91,8%. Sắc tộc: Do Thái 76%, Ả Rập
và sắc tộc khác 24%. Ngôn ngữ: Hebrew, Arabic (cả hai chính), English. Tôn
giáo: Do Thái giáo 76%, Hồi giáo 16%, Thiên chúa giáo 2%. Đất đai: Tổng diện
tích: 22.072 km2. Diện tích đất: 21.642 km2. Địa điểm: Vùng Trung Đông cuối bờ
phía đông Địa Trung Hải. Quốc gia láng giềng: Lebanon phía bắc. Syria, phía
tây, và Jordan phía đông. Dải Gaza, và Ai Cập phía tây. Địa thế: Đồng bằng dọc
bờ Địa Trung Hải là đất màu mỡ, miền trung là cao nguyên Judean. Một vùng bán
sa mạc tam giác Negev chạy dài từ nam Beersheba tới điểm cao nhất tại đầu vịnh
Agaba. Đường biên giới phía đông chạy vào lưu vực sông Rift của Jordan, bao gồm
hồ Tiberias và biển Dead là điểm thấp nhất của bề mặt trái đất sâu 1.312ft. Thủ
đô: Jerusalem 768.000. Thành phố đông dân: Tel Aviv-jaffa 3.219.000, Haifa 1.027.000
cư dân.
Chính trị và
kinh tế: Loại chính quyền: Cộng hoà. Nguyên thủ quốc gia: Tổng thống Shimon
Peres, sinh tháng 8/1923, nhậm chức 015/7/2007. Thủ tướng chính phủ: Bẹnamin
Netạnahu. sinh 21/10/1949, nhậm chức: 31/3/2009. Chính quyền địa phương: 6 khu
vực. Ngân sách quốc phòng: 9,7 tỷ USD. Quân đội chính quy: 176.500. Kinh tế:
Công nghiệp: sản xuất và thiết kế kỷ thuật cao, sản phẩm len, giấy, potash,
phosphates, chế biến thực phẩm và thức uống, thuốc lá. Nông sản: cam, chanh,
trái cây, rau quả, và sợi bông. Tài nguyên: gổ, potash, quặng đồng, khí đốt, đá
phosphate, nguyên tố kim loại trắng bạc (magnesium), hợp chất brôm (bromide),
cát, và đất sét. Dự trữ nhiên liệu: 1,9 triệu thùng. Đất nông nghiệp: 15%. Chăn
nuôi: trâu bò 440.000, gà 37,5 triệu, dê 91.000, heo 205.000, cừu 455.000. Đánh cá: 26.036 tấn. Cung cấp điện: 50,4 tỷ
Kwh. Phân bố lao động và đóng góp vào Tổng sản lượng quốc gia: nông nghiệp 2%,
đóng góp 3%; công nghiệp 16%, đóng góp 28%; dịch vụ 82%, đóng góp 69%.
Tài chính và
an sinh: Đơn vị tiền tệ: Đồng New Shekel (tháng 9/2010: 3,7=1USD). Tổng sản
lượng nội địa: 205,8 tỷ. Bình quân đầu người: 28.400. Tăng trưởng: 0,2%. Nhập
khẩu: 46 tỷ. Bạn hàng: Hoa kỳ 12,4%, Belgium 8,2%, Đức 6,7%, Thụy sỉ 5,9%, Anh
5,1%, Trung Quốc 5,1%. Xuất Khẩu: 45,8 tỷ. Bạn hàng: Hoa kỳ 38,4%; Belgium
6,5%, Hồng kông 5,9%. Du lịch: 4,1 tỷ. Ngân sách quốc gia: 58,6 tỷ. Dự trữ
ngoại tệ: 38,6 tỷ. Dự trử vàng: không có số liệu. Nợ nước ngoài: 74,5 tỷ. Giá
cả tiêu thụ: 3,3%. Vận chuyển: Đường xe lửa: 852 km. Bằng xe hơi: 1,7 triệu
lượt xe, xe hơi cá nhân 370,800. Bằng máy bay: bay 14,6 tỷ km, sân bay 30. Hải
cảng: 3 - Haifa, Ashdod, Elat. Truyền thông: Máy truyền hình: 328/1000 cư dân.
Radio: 524/1000. Điện thoại: 45,3/100. Internet: 51,6/100 người sử dụng. Sức
khoẻ y tế: Tuổi thọ: nam 78,7, nữ 83,1. Sinh xuất: 19,5/1000 cư dân. Tử xuất:
5,5/1000. Tăng dân số tự nhiên: 1,4%. Chết trước tuổi trưởng thành: 4,2/1000
trẻ sơ sinh. Nhiểm AIDS: 0,1%. Giáo dục: tuổi cưỡng bức đi học 5-15, biết đọc
biết viết 97,1%, trung học 89%, đại học 49%.
Tham gia tổ
chức quốc tế: Liên Hiệp Quốc (UN), và các tổ chức phụ thuộc của nó như Lương
nông Thế giới (FAO), Ngân hàng Thế giới ( IBRD), Lao động Thế giới (ILO), Quỹ
tiền tệ Thế giới (IMF), Hàng hải Thế giới (IMO), Y tế Thế giới (WHO), và Mậu
dịch Thế giới (WtrO).
A. Tiến trình phát triển.
Từ thời Cổ
đại phần đất phía Đông sông Jordan được hợp nhất với phần phía Tây về văn hoá,
và chính trị. Vào thế kỷ thứ 7 (SCN) người Ả Rập xâm chiếm vùng này, rồi đế
quốc Ottoman-Thổ Nhĩ Kỳ đánh chiếm từ thế kỷ thứ 16. Năm 1920, Anh được Hội
Quốc Liên ủy trị cai quản vùng Palestine bao trùm cả hai bờ Jordan. Năm 1921,
Abdullah, con trai của thủ lỉnh Hồi giáo, nhà cai trị Hejaz ở Arabia được Anh
bổ nhiệm cai quản như Chính quyền tự trị, gồm khoảng hai phần ba phần đất của
Palestine. Vương quốc Jordan độc lập thực sự được công bố năm 1946. Trong năm
1948, chiến tranh giữa các quốc gia Ả Rập và Chính quyền tân lập Israel, bờ
phía Tây và Đông Jerusalem sát nhập vào vương quốc Jordan. Tất cả vùng này bị
mất vào tay Israel trong chiến tranh năm 1967, làm cho số người tỵ nạn ở bờ
phía Tây tăng cao.
Khoảng
700.000 người tỵ nạn chạy vào Jordan, sau khi Iraq xâm lăng Kwait tháng 8/1990.
Jordan được xem như một quốc gia ủng hộ Iraq trong thời gian khủng hỏang vùng
vịnh năm 1990-1991. Jordan và Israel chính thức ký thoả thuận chấm dứt chiến
tranh giữa hai nước ngày 25/7/1994, và một hiệp ước hoà bình được ký vào ngày
26/10. Ngày 7/2/1999, sau một thời gian dài bị bệnh ung thư, vua Hussein từ
trần, con trai lớn được chỉ định kế thừa ngôi vua, gọi là Vương triều Abdullah
II. Tháng 4/2004, chính quyền Jordan tuyên bố họ đã triệt hạ một âm mưu tấn
công bằng vủ khí hóa học nhắm vào sứ quán Hoa Kỳ và các mục tiêu khác tại
Amman. Có chỉ dấu cho thấy Abu Musab al-Zarqawi một thành viên cao cấp của al-Qaeda,
người bị Hoa Kỳ tố cáo cầm đầu các nhóm du kích hoạt động tại Iraq đứng sau âm
mưu nầy.
Ngày
19/8/2005, Zarqawi còn liên quan đến vụ phóng hỏa tiển vào Aqaba suýt trúng vào
một tàu chiến Mỹ. Zarqawi bị giết trong một trận oanh kích tại Iraq ngày 7/6/2006.
Cuộc bầu cử 110 đại biểu Quốc hội ngày
20/11/2007, 104 ứng viên độc lập trung thành với nhà Vua đắc cử. Mặt trận Hành
động Hồi giáo chỉ chiếm có 6 ghế. Từ năm 1951-2010, Hoa Kỳ đã viện trợ kinh tế
và quân sự cho Jordan tới 11,4 tỷ USD. Đến giữa năm 2010, có khoảng 500.000-750.000
người tỵ nạn từ chiến tranh Iraq đang sống ở Jordan.
B. Jordan ngày nay.
Hiến pháp và
Chính quyền: Jordan là Quốc gia theo chế
độ Quân Chủ Lập hiến. Nhà vua hiện tại là Abdullah Bin Al Hussein, lên ngôi
ngày 7/2/1999 người kế thừa vua cha qua đời. Hiến pháp có hiệu lực thi hành
ngày 8/12/1952, và tu chỉnh vào các năm 1974,1976, và 1984, chỉ rõ Quốc hội gồm
2 viện: Thượng viện có 55 Thượng nghị sĩ, do nhà Vua chỉ định, và Hạ viện có
110 đại biểu được bầu ra trong các khu vực bầu cử bao gồm cả 6 đại biểu dành
riêng cho phụ nử do nử giới bầu, 9 đại biểu cho Thiên chùa giáo, và 3 đại biểu
cho giáo phái Circassians. Hạ viện bị giải tán năm 1976, và hoãn bầu cử, bởi vì
bờ phía Tây (West Bank) bị Israel chiếm đóng. Ngày 9/1/1984, Quốc hội (Thượng
viện) tái nhóm. Và cuộc bầu cử Thượng viện được tổ chức trong thảng 3/1984,
trong đó có 6 đại biểu (chỉ định) cho West Bank và mở rộng Thượng viện lên
thành 60 Thượng nghị sĩ. Ngày 9/6/1991, Nhà Vua và các Chính trị gia đã đi đến
thỏa thuận ghi vào Hiến pháp cho phép các đảng phái Chính trị hoạt động.
Cư dân và
lãnh thổ: Con người: Dân số: 6.407.000, dưới 15 tuổi 35,6%, trên 65 tuổi 4,7%.
Mật độ dân cư: 72,2 người/km2. Thành phố: 78,5%. Sắc tộc: Arab 98%, Armenian
1%, Circassian 1%. Ngôn ngữ: Arabic
(Chính), English. Tôn giáo: Hồi giáo (hầu hết Sunni) 92%. Thiên chúa giáo 6%.
Đất đai: Tổng diện tích: 89.342 km2. Diện tích đất: 88.802 km2. Địa điểm: Vùng Trung
Đông. Quốc gia láng giềng: Israel và bờ tây dải Gaza ở phía tây. Saudi Arabia
phía nam. Iraq phía đông. Và Syria phía bắc. Địa thế: Khoảng 88% đất đai Jordan
là khô cằn. Các nơi đất màu mỡ nằm ở phía tây. Chỉ có một cảng nhỏ trên bờ vịnh
Aqaba. Cùng với Israel chia xẻ biển Dead có độ sâu: 1.300ft so với trung bình
mặt nước biển. Thủ đô: Amman 1.088.000 cư dân.
Chính trị và
kinh tế: Loại chính quyền: Quân chủ lập
hiến. Nguyên thủ quốc gia: Vua Abdullah Bin Al Hussein II, sinh 30/1/1962, nhậm
chức 7/02/1999. Thủ tướng chính phủ: Samir al-Rifai, sinh 1/7/1966, nhậm chức 14/12/2009.
Chính quyền địa phương: 12 tỉnh. Ngân sách quốc phòng: 2,3 tỷ USD. Quân đội
chính quy: 100.500. Kinh tế: Công nghiệp: luyện kim, lọc dầu, xi măng, potash.
Nông sản: Lúa mì, lúa mạch, cam chanh, dưa đá, cà chua, olives và trái cây. Tài
nguyên: phosphates, potash, đá phiến. Dự trữ nhiên liệu: 1 tỷ thùng. Đất nông
nghiệp: 3%. Chăn nuôi: trâu bò 69.500, gà 25 triệu, dê 434.000, cừu 2,1 triệu.
Cung cấp điện: 12,2 tỷ Kwh. Phân bố lao động và đóng góp vào Tổng sản lượng
quốc gia: nông nghiệp 2,7%, đóng góp 4%; công nghiệp 20%, đóng góp 29%; dịch vụ
77,3%, đóng góp 67%.
Tài chính và
an sinh: Đơn vị tiền tệ: Đồng Dinar (tháng 9/2010: 0,71=1USD). Tổng sản lượng
nội địa: 32,4 tỷ. Bình quân đầu người: 5.200. Tăng trưởng: 2,4%. Nhập khẩu: 12,4
tỷ. Bạn hàng: Saudi Arabia 22,9%, Germany 8,1%, Trung quốc 7,9%, Hoa kỳ 5,2%.
Xuất Khẩu: 6,6 tỷ. Bạn hàng: Hoa kỳ 25,3%, Iraq 17%, Ấn độ 8,1%, Saudi Arabia
5,8%, Syria 4,7%. Du lịch: 2,9 tỷ. Ngân sách quốc gia: 8,4 tỷ. Dự trữ ngoại tệ:
7,4 tỷ. Dự trữ vàng: 410.000 ozt. Nợ nước ngoài: 7,3 tỷ. Giá cả tiêu thụ: giảm
-0,7%. Vận chuyển: Đường xe lửa: 505 km. Bằng xe hơi: 396.000 lượt xe, xe hơi
cá nhân: 176.000. Bằng máy bay: bay 5,3 tỷ km, sân bay: 15. Hải cảng: 1- Al
Aqabah. Truyền thông: Máy truyền hình: 83/1000 cư dân. Radio: 271/1000. Điện
thoại: 7,9/100. Internet: 27,6/100 người sử dụng. Sức khoẻ y tế: Tuổi thọ: nam
78,6, nữ 81,3. Sinh xuất: 21,7/1000 cư dân. Tử xuất: 2,7/1000. Tăng dân số tự
nhiên: 2,4%. Chết trước tuổi trưởng thành: 17/1000 trẻ sơ sinh. Nhiểm bệnh
AIDS: 0,1%. Giáo dục: tuổi cưỡng bức đi học 6-15, biết đọc biết viết 92,2%,
trung học 66%, đại học 16% .
Tham gia tổ
chức quốc tế: Liên Hiệp Quốc (UN) và các tổ chức phụ thuộc của nó như Lương
nông Thế giới (FAO), Ngân hàng Thế giới ( IBRD), Lao động Thế giới (ILO), Quỹ
tiền tệ Thế giới (IMF), Hàng hải Thế giới (IMO), Y tế Thế giới (WHO). Liên đoàn
Ả Rập (AL).
A. Tiến trình phát triển.
Lưu vực sông
Tigris-Euphrates trước kia có tên Mesopotamia là một trong những nền văn minh
đầu tiên của thế giới. Các thành phố tự trị xuất hiện khoảng năm 3000 Trước
công nguyên (TCN). Sau đó phát triển bởi người Semitic, Akkadia, Babylonia, và
Assyria. Mesopotamia không còn tồn tại sau nhiều cuộc xâm lăng của Persia, Greek,
và Arab. Người Ả Rập Hồi giáo xây dựng thành phố Baghdad như là trung tâm quyền
lực, từ nơi đó thủ lãnh Hồi giáo cai trị một vùng rộng lớn trong nhiều thế kỷ.
Sự xâm lược và thống trị của Mông Cổ, và đế quốc Ottoman-Thổ Nhĩ Kỳ đã làm dân
số, kinh tế, đời sống văn hoá và cả hệ thống tưới tiêu ruộng đồng giảm sút
nghiêm trọng. Sau chiến tranh, Anh được Hội Quốc Liên ủy trị cai quản Iraq. Năm
1932, Anh chấm dứt ủy trị, và một Vương quốc Iraq độc lập ra đời.
Ngày
14/7/1958, cuộc bạo loạn do sĩ quan quân đội tiến hành giết chết vua Faisal II,
và thành lập chế độ Cọng hòa do Liên minh Cách mạng Arab cánh tả nắm quyền. Họ
xây dựng chính sách đối ngoại hướng về Liên bang Xô viết. Hầu hết các hoạt động
công nghiệp bị quốc hữu hoá và phần lớn đất đai bị tịch thu. Từ năm 1968, nhóm
chính trị của Đảng Ba’ath Xã hội chủ nghĩa đến với quyền lực và cai trị bằng
Sắc lệnh. Liên bang Xô viết và Iraq ký hiệp ước hỗ tương năm 1972, các trang
thiết bị quân sự và hàng ngàn cố vấn được gởi đến Iraq từ Liên Xô. Năm 1973,
khi chiến tranh nổ ra giửa khối à Rập và Israel, Iraq gởi quân trợ giúp Syria.
Do tranh chấp nội bộ, chính quyền Iraq hành quyết 21 đảng viên cọng sản, và bắt
đầu giao thương với phương Tây, báo hiệu
chính sách đối ngoại trung lập.
Qua nhiều năm
đánh nhau với thiểu số người Kurk được Iran hậu thuẫn, cuối cùng người Kurk bị
đánh bại hoàn toàn năm 1975, khi Iran không còn hỗ trợ. Trong quá trình xảy ra
cuộc chiến, Iraq nhiều lần ném bom vào làng mạc của người Kurk bên trong nội
địa Iran, khiến mối quan hệ Iran- Iraq trở nên xấu đi. Ngày 16/7/1979, lảnh tụ
đảng Baath là Saddam Hussein trở thành Tổng thống Iraq. Trong tháng đầu cầm
quyền, Hussein cho tiến hành một loạt các cuộc thanh trừng đẩm máu đối với
những người gọi là đang có nổ lực đảo chánh chống lại chế độ mới của ông ta.
Hussein trở thành một nhà cai trị độc tài hơn hai thập kỷ, trấn áp hệ phái Hồi
giáo Shites, sắc tộc người Kurd, tiến hành các cuộc chiến tranh tàn khốc chống
lại hai nước láng giềng Iran và Iraq.
Sau hơn 10
tháng tranh cãi về chủ quyền trên thuỷ lộ Shatt al-Arab phân ranh giữa hai
nước. Ngày 22/9/1980, Iran và Iraq khởi sự cuộc chiến. Trong những ngày sau đó
một trận đánh lớn diễn ra xung quanh Abadan và cảng Khorram Shahr, bởi vì Iraq
tiến đánh tỉnh dầu khí của Iran là Khuzistan. Ngày 7/6/1981, máy bay Do Thái
phá huỷ một lò phản ứng hạt nhân gần Baghdad, nơi được quy kết từ đó có thể sản xuất ra vũ khí nguyên tử.
Tháng 4/1984, Iran và Iraq mở rộng cuộc chiến của họ đến vịnh Persia, với nhiều
cuộc tấn công vào các tàu chở dầu. Ngày 17/5/1987, một chiến đấu cơ của Iraq
phóng hoả tiển nhắm vào một hộ tống hạm của hải quân Hoa Kỳ trên đường tuần
tiểu vùng Persia làm 37 thuỷ thủ tử thương. Iraq ngõ lời xin lỗi Hoa Kỳ, cho
rằng đó không phải là chủ tâm của Iraq.
Chiến tranh
Iran-Iraq chấm dứt tháng 8/1988, khi quân Iraq chấp nhận một giải pháp ngưng
bắn do Liên Hiệp Quốc dàn xếp. Ngày 2/9/1990, Iraq xua quân xâm chiếm Kuwait,
châm ngòi một cuộc khủng hoảng chính trị thế giới. Ngày 6/9 Liên Hiệp Quốc áp
đặt lệnh cấm vận với Iraq kêu gọi các quốc gia thành viên, xem xét đánh giá
định ra một sự trừng phạt đối với Iraq, và bảo vệ chính quyền hợp pháp của
Kuwait. Ngày 28/9, Iraq tuyên bố Kuwait là tỉnh thứ 19 của họ. Ngày 16/1/1991,
Liên minh quân sự dưới sự lãnh đạo của Hoa Kỳ, tung ra một trận tấn công bằng
máy bay, hoả tiển nhắm vào Iraq, sau thời hạn Hội đồng Bảo an Liên Hiệp Quốc
quy định Iraq phải rút quân khỏi Kuwait. Iraq trả đũa bằng cách phóng hoả tiễn
Scud vào Israel và Saudi Arabia.
Quân Liên
minh đổ bộ tái chiếm Kuwait ngày 23/1/1991, quân đội Iraq chống cự yếu ớt và bị
đánh bại trong vòng 4 ngày. Khoảng 175.000 quân Iraq bị bắt làm tù binh và
thương vong ước khoảng trên 85.000. Một phần của thoả ước ngưng bắn, Iraq đồng
ý huỷ bỏ tất cả hơi độc, vũ khí vi trùng và để cho các điều tra viên của Liên
Hiệp Quốc kiểm tra tất cả mọi nơi bên trong nội địa Iraq. Lệnh cấm vận đối với
Iraq vẫn còn hiệu lực cho đến khi nào Iraq tuân theo tất cả các điều kiện về vũ
khí sinh học. Lúc nầy bên trong nội địa Iraq nổi lên những cuộc bạo loạn chống
Sadam Hussein của người Kurk. Nhưng quân đội Iraq đã đẩy lùi các cuộc bạo loạn,
và thường dân chạy sang đến tận biên giới Iran và Thổ Nhĩ Kỳ tạo ra một cuộc
khủng hoảng về người tỵ nạn.
Liên minh
quân sự và Hoa Kỳ lập ra một vùng cấm bay trên bầu trời bên trong nội địa Iraq
nhằm bảo đảm an toàn cho người Kurk. Iraq cũng phối hợp với toán thanh sát vũ
khí Liên Hiệp Quốc thỉnh thoảng đến Iraq làm nhiệm vụ. Ngày 26/6/1993, Hoa Kỳ
phóng một hoả tiển nhắm vào cơ quân đầu não tình báo quân sự Iraq ở Baghdad
viện dẫn lý do, Iraq đã bảo trợ cho một phi công định giết nguyên Tổng thống Mỹ
George Bush trong khi ông ta thăm Kuwait tháng 4/1993. Tháng 9/1995, hai người
con rể của Saddam Hussein từng nắm chức vụ cao trong quân đội Iraq đào ngũ sang
Jordan. Cả hai bị giết sau khi quay trở lại Iraq vào tháng 2/1996. Giữa hai
nhóm chính trị ly khai người Kurk, một liên minh với Iraq và một với Iran lại
nổ ra xung đột tại vùng biên giới phía bắc Iraq.
Chính quyền
Baghdad điều quân đến Arbil ngày 31/8/1996. Hoa Kỳ đáp trả bằng cách bắn hoả
tiển vào các vị trí phòng không ở phía Nam. Ngày 9/12, Liên Hiệp Quốc cho phép
Baghdad bắt đầu bán một lượng dầu nhất định để mua thực phẩm và thuốc men. Con
trai Sadam Hussein là Uday bị thương nặng trong một cuộc mưu sát ngày 12/12 tại
Baghdad. Iraq chống lại sự đánh giá của Liên Hiệp Quốc việc nghi ngờ các nơi
đặt vũ khí hạt nhân, dẫn đến khủng hoảng ngoại giao trong năm 1997-1998. Cực
điểm của sự căng thẳng này khi máy bay của Hoa Kỳ và Anh quốc oanh tạc các mục
tiêu quân sự của Iraq ngày 16-18/12/1998. Sau hai năm hoạt động rời rạc, ngày
16/2/2001 máy bay chiến đấu Anh - Mỹ lại
bắn phá nhiều vị trí kiên cố gần Baghdad. Ngày 28/3/2002, Hussein thừa nhận
chính quyền Kuwait với hy vọng được khối à Rập ủng hộ.
Ngày
12/9/2002, trong bài phát biểu tại Đại hội đồng Liên Hiệp Quốc, Tổng thống Mỹ
George Bush tố cáo Iraq, không tuân thủ nghị quyết của Liên Hiệp Quốc trong
việc loại bỏ các loại vũ khí có sức sát thương rộng lớn, tăng cường việc đàn áp
và hậu thuẫn khủng bố. Dưới sức ép của nhiều phía, Iraq đồng ý cho phép toán
điều tra Liên Hiệp Quốc tái lập các cuộc điều tra vô điều kiện. Trong khi đó
thì Hoa Kỳ ráo riết tìm sự hậu thuẩn quốc tế, rằng nếu Iraq không hợp tác có
thể phải thay đổi chế độ, và cùng với Anh quốc Hoa Kỳ đang điều quân đến vùng
vịnh Persia. Bất chấp sự phản đối của Đức, Pháp, và Liên bang Nga, dựa vào Nghị
quyết 1441 ngày 8/11/2002 của Hội đồng Bảo an Liên Hiệp Quốc, đêm 19/3/2003,
Hoa Kỳ lảnh đạo một Liên minh quân sự xâm lăng Iraq.
Ngày 6/4 quân
Anh chiếm Basra và nhiều nơi phía nam Iraq. Ngày 7/4 quân Mỹ chiếm Baghdad.
Hussein biến mất, chính quyền sụp đổ và lực lượng vủ trang bị giải giới. Ngày
1/5, tổng thống Bush tuyên bố Liên quân đã kiểm soát hoàn toàn lảnh thổ Iraq.
Tháng 7/2003, một Hội đồng quản lý do người Iraq lảnh đạo gồm 25 thành viên bắt
đầu chức năng quản lý xã hội từ khi Hoa Kỳ xâm lăng nước nầy. Toán điều tra
viên của Liên Hiệp Quốc tiếp tục tìm kiếm các kho vủ khí hạt nhân và hóa học có
sức sát thương lớn, nhưng không phát hiện một dấu hiệu nào về các loại vủ khí
ấy bên trong nội địa Iraq. Ngày 1/9/2003, lập ra một Hội đồng cai quản do
L.Paul Bremer cầm đầu với 25 thành viên chỉ định như một nội các có chức năng
quản lý hành chánh sự vụ ở Iraq.
Nổ lực tái
thiết Iraq đang gặp phải lực cản bởi các cuộc tấn công từ nhiều phía như tàn dư
đảng Baath, các nhóm Hồi giáo cực đoan, và nhều phần tử khác. Trước đó, ngày
22/7 hai con trai của Hussein là Uday và Qusay bị quân đội Hoa Kỳ giết chết tại
Mosul. Hoạt động chống đối ở Iraq mở rộng bằng những vụ đánh bom sứ quán Jordan
ngày 7/8, trụ sở đại diện Liên Hiệp Quốc ngày 19/8 giết chết viên lảnh sự
Sergio Vieira de Mello cùng với 21 người khác. Và tại Najaf vụ đánh bom ngày
29/8/2003, giết chết 83 người trong đó có lảnh tụ Hồi giáo Ayatollah Mohammad
Bakir al Hakim. Sau vụ đánh bom lần thứ hai vào văn phòng, Liên Hiệp Quốc rút
hết nhân viên của mình ra khỏi Iraq ngày 22/9. Liên quân tiếp tục săn tìm các
nhà lảnh đạo chế độ cũ.
Ngày
23/12/2003, quân đội Hoa Kỳ bắt đuợc Saddam Hussein đang ẩn núp dưới một cái
hầm nhỏ. Phiên tòa xét xử ông ta dự kiến sẻ bắt đầu ngày 1/7/2004 với cáo buộc
tội hình chống lại nhân loại. Tình trạng nỗi loạn tiếp tục gia tăng giết chết
nhiều thường dân Iraq, người nước ngoài kể cả nhân viên dân sự tham gia tái
thiết Iraq. Hoa Kỳ cáo buộc những tay cầm đầu nhóm tu sỉ cấp tiến hệ phái
Shiite như Moqtada al-Sadr và nhóm dân quân vủ trang Jordan như Abu Musab
al-Zarqawi đứng đàng sau các vụ bắt cóc, chặt đầu và ôm bom tự sát. Falluyah
vẫn còn là trung tâm kháng cự của hệ phái Sunni. Người ta còn nhớ một trong
những hành động dã man của họ khi những tay súng phục kích, bắt cóc và giết 4
người thợ xây dựng ở Falluyad rồi kéo lê họ đi qua các đường phố trong tháng
3/2004.
Nhiều cuộc
tấn công của phe nhóm bạo loạn còn nhắm vào các ống dẩn dầu, các cơ sở sản xuất
nhằm làm gián đoạn việc sản xuất dầu lửa của Iraq. Tháng 4/2004, những bức ảnh
chụp được trên báo chí, chỉ cho thấy tù nhân Iraq bị binh sỉ Mỹ đối xử tàn tệ
và làm nhục tại trại tù Abu Ghraib ở Baghdad từ mùa thu 2003. Ngày 28/6/2004,
Hoa Kỳ chính thức chuyển giao quyền quản lý nhà nước cho chính quyền Iraq dưới
sự điều khiển của Thủ tướng Iyah Allawi. Khoảng 140.000 quân sỉ Hoa Kỳ vẫn còn
trú đóng ở Iraq cùng với 25.000 quân đồng minh và hàng ngàn cố vấn dân sự tái
thiết. Ngày 27/8/2004, trong một trận đánh kéo dài tới 3 tuần lễ lực lượng Iraq
và Hoa Kỳ đánh bại đội quân du kích của Sadr Mahdi do lảnh tụ Hồi giáo Grand
Ayatollah Ali al-Sistani chiếm được Najaf.
Tính đến
tháng 9/2004, có tới 1.000 quân Mỹ tử thương và hơn 6.500 bị thương tại Iraq.
Các cuộc tấn công nhắm vào Liên quân ngày càng gia tăng kể từ ngày Hoa Kỳ tuyên
bố chấm dứt cuộc chiến. Anh, Ý, Tây Ban Nha, Ba Lan, và các quốc gia khác cũng
có trên 100 người tử thương. Nhiều ngàn thường dân và quân sỉ Iraq bị giết
trong các cuộc bạo loạn. Cuộc bầu cử Quốc hội Lập hiến ngày 30/1/2005, Liên
đảng Thống nhất Shia Iraq giành thắng lợi lớn. Ngày 6/4/2005, Jalal al-Talabani
trở thành Tổng thống. Và ngày 3/5, Ibrahim al-Jaafari tuyên thệ nhậm chức Thủ
tướng. Cuộc “trưng cầu dân ý” tháng 10/2005, cử tri chấp nhận Hiến pháp Liến
bang Iraq. Bất chấp các cuộc bạo loạn, và các bất ổn về chính trị, phiên xử nhà
độc tài Saddam Hussein với cáo buộc giết người hàng loạt khởi xử ở Baghdad.
Ngày
15/12/2005, trong cuộc bầu cử 275 đại biểu Quốc hội, Liên minh Iraq Thống nhất
dẫn đầu với 128 ghế, kế đến là Liên minh Kurdistan 53 ghế, Mặt trận Hòa hợp
Iraq 44 ghế, các đảng nhỏ tranh nhau các ghế còn lại. Ngày 22/2/2006, một vụ
đặt bom phá hủy thánh đường Hồi giáo thường gọi là ngôi đền vàng tại Samarra, châm
ngòi cho một cuộc bạo loạn nhiều nơi ở Baghdad giữa hai hệ phái Sunnis và
Shiites. Sau nhiều tháng thương thảo, tháng 4/2006, Nouri al-Maliki được chỉ
định làm Thủ tướng. Tháng 11/2006, Saddam Hussein bị kết án tử hình. Và bản án
được thi hành ngày 30/12/2006, dẫn đến nhiều sự phản kháng khắp nơi cả trong
lẫn ngoài Iraq. Từ tháng 1-12/2006, trung bình thường dân Iraq đã chết vì chiến
tranh 2.800 người.
Và từ tháng
1-8/2007, tăng thành 2.900 người mỗi tháng. Tại giữa năm 2007, có 1,5 triệu
người Iraq tị nạn tại Syria, 700.000 tại Jordan, và trên 2 triệu người chạy ra
khỏi nơi cư trú. Đầu năm 2007, Trung tướng David H. Petraeus trở thành Tư lệnh
chiến trường Iraq, và quân sỉ Mỹ cũng tăng lên từ 132.000 trong tháng 1 lên
thành 171.000 trong tháng 10. Trong năm 2007, có 899 quân sỉ Hoa Kỳ tử thương.
Nhưng số thương vong trong dân chúng Iraq có khuynh hướng giảm từ giữa năm 2007
cho đến tháng 9/2008. Việc giảm thương vong rõ ràng đã góp phần tiến đến một
cuộc ngưng bắn giữa hai nhóm dân quân trong hai hệ phái Hồi giáo Shiite và
Sunni nhất là tại tỉnh Anbar. Ngày 1/9/2008, quân đội Hoa Kỳ cũng chuyền giao
tỉnh Anbar nầy cho chính quyền Iraq.
Tính đến
tháng 9/2008, lực lượng Liên quân còn lại ở Iraq gồm 146.000 quân Mỹ, và 6.900
quân Đồng minh, giảm 25.000 so với tháng 12/2004. Hoa Kỳ còn có trên 10.000 cố
vấn dân sự và nhân viên hợp đồng. Ngày 27/11/2009, Quốc hội Iraq ra lời kêu gọi
Mỹ rút quân khỏi các thành phố ngày 30/6/2009, và tất cả quân Mỹ sẽ rời khỏi
Iraq vào ngày 31/12/2011. Cuộc bầu cử Quốc hội ngày 7/3/2010, Liên minh
Iraqiya, do nguyên Thủ tướng Iyad Allawi được hệ phái Sunni giành thắng lợi.
Ngày 31/8/2010, Tổng thống Obama chính thức tuyên bố quân Mỹ đã chấm dứt vai
trò chiến đấu tại Iraq. Tại thời điểm nầy quân Mỹ còn tại Iraq dưới 50.000, và
hơn 10.000 nhân viên dân sự, nhà thầu, và các cố vấn.
Từ ngày Hoa
kỳ lảnh đạo Liên quân xâm lăng Iraq tháng 3/2003, cho đến tháng 8/2010, có hơn
4.400 người Mỹ chết, và trên 32,000 người bị thương trên chiến trường Iraq,
cùng với 170 người Anh, và 130 ngưòi các nước đồng minh khác. Cùng thời gian
nầy, có hơn 112.600 thường dân Iraq, và 9.600 cảnh sát và lưc lượng an ninh bị
giết. Về chiến phí, theo ước tính của Viện nghiên cứu Brooking từ năm 2003-2011
Hoa Kỳ đã chi tiêu trên 800 tỷ.
B. Iraq ngày nay.
Hiến pháp và
Chính quyền: Trước khi Saddam Hussein bị đánh đổ, Hội đồng Điều hành Cách mạng
(RCC) là Cơ quan quyền lực cao nhất. Chỉ có Mặt trận Tiến bộ Quốc gia (thành
lập năm 1973) gồm đảng Phục hưng Xã hội à Rập (Ba’afh) và vài khuynh hướng
Kurdish mới được phép hoạt động chính trị. Sau khi đánh đổ chính quyền Hussein
vào tháng 3/2003, Hội đồng quản lý Quốc gia hình thành và họp phiên đầu tiên
vào tháng 7/2003, từng bước tiến đến Chính quyền tự quản hoàn toàn. Ngày
28/6/2004, Hội đồng cai quản Iraq do Hoa Kỳ lãnh đạo giải tán, chuyển giao toàn
bộ quyền hành quản lý cho Chính quyền Iraq. Sau cuộc bầu cử 275 đại biểu Quốc
hội Lập hiến trong tháng 1/2005, nó trở thành Chính quyền chuyển tiếp. Quốc hội
thông qua Dự thảo Hiến pháp ngày 29/8/2005. Và 14 ngày sau Quốc hội đầu tiên
nầy tự giải tán.
Trong cuộc
“trưng cầu dân ý” ngày 15/10/2005, cử tri chấp nhận dự thảo Hiến pháp với tỷ lệ
76,6%. Hiến pháp tuyên bố rằng Iraq là một Quốc gia Dân chủ Liên bang theo chế
độ Cộng hòa đại diện nhiều sắc tộc, nhiều tôn giáo, nhiều thành phần của Quốc
gia. Hồi giáo là tôn giáo chính, và hoạt động theo Luật pháp. Cuộc bầu cử 275
đại biểu Quốc hội mới trong tháng 12/2005. Người ta hy vọng rằng Quốc hội sẽ
thảo luận và thông qua các đạo luật cho sự ổn định và phát triển kể cả việc
thành lập Thượng viện.
Cư dân và
lãnh thổ: Con người: Dân số: 29.671.000, dưới 15 tuổi 38,4%, trên 65 tuổi 3,1%.
Mật độ dân cư: 67,8 người/km2. Thành phố: 66,3%. Sắc tộc: Arab 75-80%, Kurdish
15-20%. Ngôn ngữ: Arabic (chính), Kurdish, Assyrian, Armenian. Tôn giáo: Đạo
Hồi, trong đó hệ phái Shi'a 60-65%, hệ phái Sunni 32-37%. Đất đai: Tổng diện
tích: 438.317 km2. Diện tích đất: 437.367 km2. Địa điểm: Vùng Trung Đông, chiếm
hầu hết vùng đất Mesopotamia lịch sử . Quốc gia láng giềng: Jordan và Syria phía
tây. Turkey phía bắc. Iran phía đông. Kuwait và Saudi Arabia phía nam. Địa thế:
Đồng bằng phù sa, gồm cả hai con sông Tigris và Euphrates, thấp xuống từ dãy
núi phía bắc đến sa mạc phía tây nam. Vùng vịnh Persia có đất đầm lầy. Thủ đô:
Baghdad. Thành phố đông dân: Baghdad 5.751.000 cư dân, Mosul 1.402.000, Arbil 981.000, Basra 905.000 cư dân.
Chính trị và
kinh tế: Loại chính quyền: Cộng hoà. Nguyên thủ quốc gia: Tổng thống Jalal
Talabani, sinh 1933, nhậm chức 7/4/2005. Thủ tướng chính phủ: Nouri Kamel al-Maliki,
sinh 1950, nhậm chức 20/5/2006. Chính quyền địa phương: 28 chính quyền tự trị
(3 Kurdist). Ngân sách quốc phòng: không có số liệu. Quân đội chính quy: 578.269.
Kinh tế: Công nghiệp: dầu khí, hóa chất, hàng dệt, vật liệu xây dựng, chế biến
thực phẩm. Nông sản: Lúa mì, lúa mạch, gạo, rau quả, chà là, bông sợi. Tài
nguyên: Dầu lửa, khí thiên nhiên, phosphate. Dự trữ nhiên liệu: 115 tỷ thùng. Đất
nông nghiệp: 13%. Chăn nuôi: trâu bò 1,5 triệu, gà 33 triệu, dê 1,7 triệu, heo
1,7 triệu, cừu 6,2 triệu. Đánh cá: 74.126 tấn. Cung cấp điện: 31,2 tỷ Kwh. Phân
bố lao động và đóng góp vào Tổng sản lượng quốc gia: nông nghiệp 30%, đóng góp
15%; công nghiệp 22%, đóng góp 41%; dịch vụ 48%, đóng góp 44%.
Tài chính và
an sinh: Đơn vị tiền tệ: Đồng Dinar (tháng 9/2010: 1.166=1USD). Tổng sản lượng
nội địa: 110,1 tỷ. Bình quân đầu người: 3.800. Tăng trưởng: 4,5%. Nhập khẩu: 55,4
tỷ. Bạn hàng: Syria 26,9%, Tuekey 20,6%, Hoa Kỳ 12%, Jordan 7,3%. Xuất Khẩu:
40,9 tỷ. Bạn hàng: Hoa Kỳ 46,6%, Italy 10,7%, Canada 6,2%, Tây Ban Nha 6,1%. Du
lịch: 4,5 triệu. Ngân sách quốc gia: 72,4 tỷ. Dự trữ ngoại tệ: 29,5 tỷ. Dự trữ
vàng: 188.599 ozt. Nợ nước ngoài: 125,0 tỷ. Giá cả tiêu thụ: không có số liệu.
Vận chuyển: Đường xe lửa: 2.271 km. Bằng xe hơi: 827.000 lượt xe, xe hơi cá
nhân: 311.900. Bằng máy bay: không có số liệu, sân bay: 76. Hải cảng: 1- Basra.
Truyền thông: máy truyền hình: 82/1000 cư dân. Radio: 229/1000. Điện thoại: 3,6/100.
Internet: 1,1/100 người sử dụng. Sức khoẻ y tế: Tuổi thọ: nam 68,9, nử 71,7.
Sinh xuất: 29,4/1000 cư dân.Tử xuất:4,9/1000. Tăng dân số tự nhiên: 2,4%. Chết
trước tuổi trưởng thành: 43,2/1000 trẻ sơ sinh. Nhiểm bệnh AIDS: không có số
liệu. Giáo dục: tuổi cưỡng bức đi học 6-11, biết đọc biết viết 77,6%, trung học
20%, đại học 13%.
Tham gia tổ
chức quốc tế: Liên Hiệp Quốc (UN) và các tổ chức phụ thuộc của nó như Lương
nông Thế giới (FAO), Ngân hàng Thế giới ( IBRD), Lao động Thế giới (ILO), Quỹ
tiền tệ Thế giới (IMF), Hàng hải Thế giới (IMO), và Y tế Thế giới (WHO). Liên
đoàn Ả Eập (AL). Các quốc gia Xuất cảng dầu lửa (OPEC).
A. Tiến trình phát triển.
Iran từng một
lần gọi là Persia. Người Iran đến từ phía Đông vào Thiên Niên kỷ thứ 2 Trước
công nguyên (TCN) chiếm vùng đất có nền văn minh nông nghiệp sớm này. Họ là
người thuộc bán đảo Châu Âu có liên quan đến người Aryan của Ấn Độ. Năm 549
TCN, Cyrus hợp nhất Mendes và Persia thành đế quốc Persia, xâm chiếm Babylon
năm 538 TCN, và trả Jerusalem cho người Do Thái. Alexander đánh chiếm Persia
năm 333 TCN, nhưng người Persia tái thâu hồi độc lập thế kỷ sau đó dưới thời
Parthian. Nhà Parthian cai trị cho đến năm 222 Sau công nguyên (SCN), thì nhà
Sassan đến với quyền lực. Người Ả Rập đưa Hồi giáo vào Persia trong thế kỷ thứ
7, thay thế niềm tin Zoroastrian của người bản địa. Sau khi chính quyền tự trị
Persia được phục hồi vào thế kỷ thứ 9, thì văn hoá, chính trị, nghệ thuật và
khoa học hưng thịnh.
Mông Cổ, và
Thổ Nhĩ Kỳ trở lại cai trị Persia từ thế kỷ thứ 11 đến năm 1502, khi Ismael I
thành lập Vương quốc Safavid của người bản xứ Iran và nâng Hồi giáo hệ phái
Shiite thành quốc giáo. Vương triều Safavid tiếp tục bành trướng lảnh thổ và
cai trị cho đến năm 1722 thì đế quốc Anh
và Nga tranh nhau chi phối Persia. Năm 1857, Anh quốc cắt tách
Afghanistan ra khỏi Iran. Reza Khan, một sỉ quan quân đội trở thành Thủ tướng
năm 1923, và tự phong Vua (Shah) năm 1925. Ông bắt đầu hiện đại hóa đất nước,
kềm hảm sự khống chế từ nước ngoài. Năm 1935, ông đổi tên Persia thành Iran. Lo
sợ nhà vua Reza Khan có thiện cảm sẽ ngã theo phe Trục, quân đội Liên Xô và Anh
quốc buộc Reza Khan rời khỏi ngôi vua năm 1941. Con trai ông ta Mohammad Reza
Pahlawi kế vị.
Được sự hậu
thuẩn của Hoa Kỳ, Pahlawi mang lại nhiều sự thay đổi kinh tế xã hội cho Iran,
nhưng không được phe đối lập chính trị chấp nhận. Tín đồ Hồi giáo bảo thủ phản
gây bạo loạn. Ngày 8/8/1978, Pahlawi công bố thiết quân luật tại 12 thành phố.
Ngày 6/11, thành lập chính phủ quân sự, nhưng vẫn không giải quyết được tình
hình. Ngày 16/1/1979, vua Pahlawi rời khỏi Iran, chỉ định Thủ tướng Shahpur
Bakhtiar lãnh đạo Hội đồng nhiếp chính. Lãnh đạo Hồi giáo (hệ phái Shiite) hiếu
động Ayotollah Ruhollah Khomeini, bị vua Pahlawi trục xuất năm 1963, trở về
Tehran vào ngày 1/2/1979. Xung đột nổ ra giữa những người ủng hộ Khomeini và quân
đội chính phủ lên tới cao điểm ngày 11/2, khi đội vệ binh ưu tú Hoàng gia tháo
chạy, đưa tới sự sụp đổ của chính phủ Bakhtiar.
Bạo loạn Iran
còn tiếp tục bởi các cuộc nổi dậy của sắc tộc thiểu số, và cuộc đấu tranh giữa
hai thế lực tăng lữ và lực lượng tự do thân phương Tây của trí thức. Hiến pháp
Hồi giáo Iran trao quyền tối hậu của quốc gia cho một giáo chủ Đạo hồi (Faghi)
Ayatollah Khomeini. Ngày 4/11/1979, những người hiếu chiến Iran chiếm toà đại
sứ Hoa Kỳ và bắt giữ 62 người Mỹ làm con tin. Mặc cho sự lên án của thế giới và
các nỗ lực của Hoa Kỳ, kể cả nỗ lực giải thoát con tin thất bại vào tháng
4/1980. Căng thẳng, khủng hoảng vẫn tiếp tục. Ngày 7/4, Hoa Kỳ cắt đứt quan hệ
ngoại giao với Iran. Vua Hồi Pahlawi chết ngày 27/7 ở Ai Cập. Tấn bi kịch về
con tin kết thúc ngày 20/1/1981, khi Hoa Kỳ và Iran đạt tới một thoả hiệp liên quan đến hàng loạt
tài sản của Iran tại Hoa Kỳ được giải toả.
Ngày
22/9/1980, do sự tranh chấp trên thuỷ lộ Shatt al Arab, Iraq và Iran bắt đầu
cuộc chiến. Tháng 10 quân Iraq đánh chiếm một phần đất Iran bao gồm cả thành
phố cảng Khorramshahr. Tháng 5/1982, quân đội Iran tái chiếm thành phố và đẩy
quân đội Iraq trở lại bên kia biên giới. Trong năm 1984, Iraq và sau đó Iran
tấn công nhiều tàu dầu của nhau trong vịnh Persia. Tháng 11/1986, một số viên
chức cao cấp của chính phủ Hoa Kỳ bí mật thăm viếng Iran và đã cung cấp vũ khí
cho nước này để đổi lại Iran giúp Hoa Kỳ trong việc phóng thích các con tin Mỹ
bị bọn khủng bố bắt giữ ở Lebanon. Tiết lộ sự kiện này, đã châm ngòi cho dư
luận Mỹ chỉ trích về sự bất minh của chính quyền Regean. Ngày 3/7/1988, một tàu
chiến Hải quân Hoa Kỳ, bắn lầm một phi cơ thương mại Iran, giết chết 290 hành
khách trên phi cơ.
Tháng 8/1988,
Iran đồng ý chấp nhận giải pháp của Liên Hiệp Quốc kêu gọi ngưng chiến với
Iraq. Ngày 21/6/1990, một trận động đất nổ ra phía bắc Iran làm chết hơn 45.000
người, 100.000 người bị thương và 400.000 phải rời bỏ nhà cửa. Trong chiến
tranh vùng vịnh Persia cuối năm 1990 và đầu năm 1991, hơn 1 triệu người Kurd tỵ
nạn chạy trốn từ Iraq đến Iran. Năm 1996, viện cớ Iran ủng hộ bọn khủng bố quốc
tế, Liên Hiệp Quốc cấm vận hạn chế một số công ty nước ngoài đầu tư vào Iran.
Ngày 23/5/1997, Mohammad Khatami một tu sĩ Hồi giáo Shi'a ôn hoà được bầu làm
Tổng thống, chiếm gần 70% số phiếu. Trong 3 năm tiếp đó, những người Hồi giáo
cực đoan, lại làm bạo loạn một vài trường hợp đánh nhau với người cải cách là
những người đã chiếm đa số ghế tại Quốc hội trong cuộc bầu cử ngày 18/2 và
5/5/2000.
Ngày 18/3,
Hoa Kỳ thăm viếng hữu nghị Iran, tháo gỡ một phần cấm vận lên nước này. Ngày
8/6/2001, Khatami được tái bầu làm Tổng thống, với 77% phiếu bầu, nhưng ông ta
còn phải đương đầu với muôn vàn khó khăn từ những người bảo thủ tôn giáo. Tháng
3/2003, Hoa Kỳ bắt đầu cuộc chiến ở Iraq, làm cho Iran có được sự ổn định để
phát triển vủ khí hạt nhân. Hoa Kỳ tố cáo Iran đã cấp nơi trú ẩn an toàn cho
bọn khủng bố al-Qaeda. Tháng 6, dân quân Hồi giáo bắt giữ một số sinh viên có
thái độ ủng hộ dân chủ ở Tehran và các thành phố khác. Ngày 26/12, một trận
động đất ở Bam phía Đông nam Iran giết chết khoảng 26.000 người. Trong cuộc bầu
cử Quốc hội ngày 20/2/2004, nhóm Bảo thủ tôn giáo chiếm đa số ghế, sau khi Hội
đồng An ninh Quốc gia theo đường lối cứng rắn đã loại bỏ 2.400 ứng cử viên cấp
tiến.
Ngày 1/6/2004,
Sở năng lượng hạt nhân Quốc tế chỉ trích Iran giấu giếm các thông tin liên quan
đến việc Iran đang tiến hành một chương trình hạt nhân. Ngày 22/5/2005, Hội
đồng An ninh Quốc gia đả chọn được 6 ứng viên trong số 1.014, người muốn ứng cử
Tổng tống, Thị trưởng Tehran là Mahmoud Ahmadinejad một người bảo thủ tôn giáo,
nhưng khi vận động như một nhà cải cách, đánh bại nguyên Tổng thống Rafsanjani
tại vòng bầu chung cuộc ngày 24/6. Dưới sự lảnh đạo của ông ta, Iran khởi sự
lại việc luyện uranium bất chấp sự phản đối của thế giới. Tổng thống Bush từng
gọi Iran là một trong 3 nước của “trục ma quỷ” (axis of evil), và tố cáo chính
quyền Iran dang chế tạo vủ khí hạt nhân, hổ trợ dân quân Shiite, và cung cấp
hỏa tiển cho du kích Hezbollah ở Lebanon đánh phá Israel.
Trong phúc
trình gởi Hội đồng Bảo an Liên Hiệp Quốc trong tháng 2/2006, Sở Năng lượng Hạt
nhân quốc tế bày tỏ sự lo ngại sâu sắc, việc Iran gia tăng năng lượng hạt nhân
trong thời gian gần đây. Tháng 4/2006, Tổng thống Iran xác nhận chương trình nghiên
cứu hạt nhân của họ nhằm mục tieu hòa bình, và hiện Iran đang thủ đắc một lượng
lớn năng lượng hạt nhân. Ngày 23/12, Hội đồng Bảo an Liên Hiệp Quốc áp đặt lệnh
cấm vận kéo dài đến 24/3/2007 lên Iran. Trong cuộc bầu cử Quốc hội tháng 3 và
4/ 2008, đã loại 1.700 ứng viên cấp tiến, và những ứng viên bảo thủ thắng lớn.
ngày 20/7, cuộc đàm phán về việc Iran làm giàu năng lượng hạt nhân lại đi vào
bế tắc, và Hoa Kỳ áp đặt lệnh cấm vận lên Iran ngày 10/9/2008. Trong cuộc bầu
cử tổng thống ngày 12/6/2009, Ahmadinejad tái đắc cử với 62% phiếu bầu. Dòng
người ủng hộ ứng viên nguyên thủ tướng Mir Husein Moussavi xuống đường biểu
tình không chỉ tại thành phố thủ đô Tehran mà trên nhiều thành phố khác đã bị
lực lượng an ninh đàn áp không nương tay. Mặc dù ngày 1/10/2009, Iran đã đồng ý
để các thanh tra quốc tế đến Qom điều tra việc sản xuất năng lượng hạt nhân của
Iran, trong tháng 6 và tháng 7/2010, Liên Hiệp Quốc và Hoa Kỳ lại áp đặt lệnh
cấm vận lên Iran.
B. Iran ngày nay.
Hiến pháp và
Chính quyền: Trong cuộc “trưng cầu dân ý” tháng 12/1979, cử tri chấp nhận Hiến
pháp “Cộng hòa Hồi giáo Iran”. Năm 1982, thành lập một Hội đồng Chuyên trách
gồm 86 thành viên với nhiệm kỳ 8 năm, có chức năng giải thích, tu chính Hiến
pháp và bầu Lãnh đạo Tôn giáo. Năm 1989, tu chỉnh Hiến pháp, tăng thêm quyền
hạn của Tổng thống và bải bỏ chức Thủ tướng. Nó trao cho Giáo chủ Hồi giáo
Ayatollah Khomeini quyền tối cao cho đến khi ông ta chết ngày 3/6/1989. Ngày
4/6/1989, Ayatollah Ali Khameinei được bầu làm Giáo chủ kế tục Khomeini, nhưng
quyền hạn Giáo chủ không còn như trước. Hiến pháp quy định, Quốc hội có 290 đại
biểu được bầu từ các khu vực bầu cử với nhiệm kỳ 4 năm. Ứng viên phải được 12
thành viên trong Hội đồng An ninh Quốc gia chấp nhận, để bảo đảm rằng họ sẽ
tuân thủ Luật Hồi giáo và Luật Hiến pháp. Tổng thống giữ quyền Hành pháp, và
tại chức không quá 2 nhiệm kỳ 4 năm. Ông ta chỉ định các Bộ trưởng với sự đồng
ý của Quốc hội.
Cư dân và
lãnh thổ: Con người: Dân số: 76.923.000, dưới 15 tuổi 21,3%, trên 65 tuổi 5,4%.
Mật độ dân cư: 50,2 người/km2. Thành phố: 70,2%. Sắc tộc: Persian: 51%, Azeri
24%, Gilaki/Mazandarni 8%, Kurd 7%, Arab 3%, Lur 2%, Balochi 2%, Turkmen 2%.
Ngôn ngữ: Farsi/Persian (chính),
Kurdish, Pashto, Luri, Balochi, Gilaki, Mazandarami, Azeri và Turkic languages,
Arabic, Turkish. Tôn giáo: Hồi giáo: Shi'a 89%, Sunni 9%. Đất đai: Tổng diện
tích: 1.648.195 km2. Diện tích đất: 1.531.595 km2. Địa điểm: Giữa Trung Đông và
Nam Á . Quốc gia láng giềng: Thổ Nhĩ Kỳ, và Iraq phía tây. Armenia, Azerbaijan,
và Turkmenisstan phía bắc, Afgjanisstan, và Pakistan phía đông. Địa thế: trong
nội địa đất cao, đồng bằng được bao quanh bởi núi cao tới 18.000ft. Sa mạc muối
phủ lên nhiều vùng nhưng cũng có nhiều ốc đảo và rừng. Hầu hết cư dân sống ở
phía bắc và tây bắc. Thủ đô: Tehran. Thành phố đông dân: Tehran: 7.190.000 cư
dân, Mashhad 2.592.000, Esfahan 1.704.000 cư dân.
Chính trị và
kinh tế: Loại chính quyền: Cộng hoà Hồi giáo. Nguyên thủ quốc gia và cầm đầu
chính phủ: Tổng thống: Mahmoud Ahmadinejad, sinh ngày 28/10/1956, nhậm chức
6/8/2005 (tái bầu 2009). Chính quyền địa phương: 28 tỉnh. Ngân sách quốc phòng:
9,5 tỷ USD. Quân đội chính quy: 523.000. Kinh tế: Công nghiệp: dầu khí, sản
phẩm hóa dầu, hàng dệt, vật liệu xây dựng, chế biến thực phẩm, luyện kim, chế
tạo vủ khí. Nông sản: Lúa mì, gạo, hạt ngũ cốc khác, quả hạnh nhân, trái cây,
củ cải đường, sợi bông. Tài nguyên: dầu lửa, khí đốt, than, nguyên tố kim loại
không gỉ, đồng, quặng sắt, chì, mangane, nhôm thạch cao. Dự trữ nhiên liệu: 136,2
tỷ thùng. Đất nông nghiệp: 10%. Chăn nuôi: trâu bò 9,8 triệu, gà 420 triệu, dê
25,9 triệu, heo không có số liệu, cừu 52,2 triệu. Đánh cá: 575.560 tấn. Cung
cấp điện: 192,6 tỷ Kwh. Phân bố lao động và đóng góp vào Tổng sản lượng quốc
gia: nông nghiệp 25%, đóng góp 13%; công nghiệp 31%, đóng góp 41%; dịch vụ 45%,
đóng góp 46%.
Tài chính và
an sinh: Đơn vị tiền tệ: Đồng Rial (tháng 9/2010: 10.003=1USD). Tổng sản lượng
nội địa: 827,1 tỷ. Bình quân đầu người: 12.500. Tăng trưởng: 1,5%. Nhập khẩu: 57,2
tỷ. Bạn hàng: Đức 12%, China 11%, United Arab Emirates 9%, Nam Triều Tiên 6%,
Pháp 6%, Italy 5%. Xuất khẩu: 70,3 tỷ. Bạn hàng: Nhật bản 14%, Trung quốc 13%,
Turkey 7%, Ý Đại Lợi 6%, Nam Triều tiên 6%. Du lịch: 1,9 tỷ. Ngân sách quốc
gia: 93,0 tỷ. Dự trữ ngoại tệ: không có số liệu. Dự trữ vàng: không có số liệu.
Nợ nước ngoài: 13,4 tỷ. Giá cả tiêu thụ: tăng 13,5%. Vận chuyển: Đường xe lửa:
7.198 km. Bằng xe hơi: 1,5 triêụ lượt xe, xe hơi cá nhân: 431.200. Bằng máy
bay: bay 11,5 tỷ km, sân bay: 129. Hải cảng: 3 Assaluyeh, Bandar Abbas, và
Bandar-e Eman, Khomeyni. Truyền thông: Máy truyền hình: 154/1000 cư dân. Radio:
265/1000. Điện thoại: 34,8/100. Internet: 37,6/100 triệu người sừ dụng. Sức
khoẻ y tế: Tuổi thọ: nam 68,3, nữ 71,3. Sinh xuất: 18,5/1000 cư dân. Tử xuất: 5,9/1000.
Tăng dân số tự nhiên: 1,2%. Chết trước tuổi trưởng thành: 43,5/1000 trẻ sơ
sinh. Nhiểm bệnh AIDS: 0,2%. Giáo dục: tuổi cưỡng bức đi học 6-13, biết đọc
biết viết 82,3%, trung học 75%, đại học 17%.
Tham gia tổ
chức quốc tế: Liên Hiệp Quốc (UN) và các tổ chức phụ thuộc của nó như Lương
nông Thế giới (FAO), Ngân hàng Thế giới ( IBRD), Lao động Thế giới (ILO), Quỹ
tiền tệ Thế giới (IMF), Hàng hải Thế giới (IMO), Y tế Thế giới (WHO). Các quốc
gia Xuất cảng dầu lửa (OPEC).
A. Tiến trình phát triển.
Afghanistan
hầu như nằm trên con đường xâm lăng của các thế lực ngoại bang nổi tiếng như
Ariana hoặc Bactria (thời Cổ đại) và Khorasan (thời Trung cổ). Các đế quốc từ
ngoài luân phiên nhau cai trị, cùng với các thủ lĩnh Hồi giáo và Vua địa phương.
Cho đến thế kỷ 18, một Vương quốc thống nhất Afghanistan mới được hình thành.
Không bao lâu sau, lại bị đế quốc Persia chiếm trị. Năm 1857, nhờ áp lực từ Anh
quốc, Afghanistan tái thâu hồi nền độc lập của mình. Năm 1973, một cuộc đảo
chánh quân sự mở đầu cho thể chế Cọng
hoà. Năm 1978, được hậu thuẫn từ Liên Xô, một cuộc đảo chánh đẩm máu khác đưa
những người Cánh tả lên nắm quyền hành. Sau đó Chính quyền cánh tả ký hiệp ước
hợp tác nhiều mặt chính trị, quân sự, kinh tế, văn hóa và xạ hội với Liên Xô.
Do bất đồng
về sách lược tháng 12/1979, Liên Xô tiến
hành xâm lăng Afghanistan, mở đầu bằng các cuộc oanh kích nặng nề vào thủ đô
Kabul, rồi đổ quân vào dựng lên một Chính quyền thân Liên Xô. Chiến tranh du
kích bắt đầu, và kéo dài dưới sự lảnh đạo của các phe nhóm Hồi giáo khác nhau,
trong đó 15.000 quân Liên Xô được ghi nhận là tử thương. Qua sự trung gian hoà
giải của Liên Hiệp Quốc, ngày 14/4/1988 một thoả hiệp được ký bởi các bên liên
quan, theo đó Liên Xô rút quân khỏi Afghanistan, Afghanistan hồi hương những
người tỵ nạn từ các nước láng giềng, và trở thành một quốc gia trung lập. Phe
bạo loạn Hồi giáo Afghanistan phản đối thoả ước, tuyên bố tiếp tục cuộc chiến
cho đến khi quân đội Liên Xô và chính quyền bù nhìn không còn tồn tại ở Kabul.
Ngày 15/2/1989,
quân đội Liên Xô hoàn tất cuộc rút quân, thế nhưng chiến tranh vẫn còn diễn ra
giữa lực lượng bạo loạn và quân đội chính phủ. Ngày 16/4/1992, khi quân du kích
tiến đến gần thủ đô Kabul, Tổng thống Cọng sản Najibullah từ chức. Ngày 28/4,
phe bạo loạn thắng lợi, chính quyền do Liên Xô hậu thuẫn chấm dứt sau 14 năm
tồn tại. Hơn 2 triệu người Afghanistan bị giết, và hơn 6 triệu người phải rời
khỏi quê hương kể từ 1979. Sau chiến thắng, phe bạo loạn lại xảy ra mâu thuẫn
giữa những người Hồi giáo ôn hoà và Hồi giáo bảo thủ. Burhamuddin Rabbani người
cầm đầu quân du kích trở thành Tổng thống ngày 28/6/1992, nhưng tiếng súng vẫn
tiếp tục quanh Kabul và nhiều nơi khác. Taliban, một nhóm trong phe nổi dậy Hồi
giáo bảo thủ, gia tăng vùng kiểm soát đến tháng 9/1996, đánh chiếm Kabul lập ra
chính quyền mới.
Taliban hành
quyết nguyên Tổng thống Najibullah và trao cho lực lượng cảnh sát Hồi giáo thực
thi các điều khoản nghiêm ngặt về cách hành xử, và ăn mặc theo luật Hồi giáo,
nhất là phụ nử. Rabbani và các lãnh đạo bị hất cẳng, chạy trốn về hướng Bắc.
Việc Taliban đánh chiếm hai thành phố phía Bắc là Mazar-e Sharif ngày 8/8/1998,
và Talogan ngày 11/8, đã mang lại cho Taliban kiểm soát trên 90% lãnh thổ
Afghanistan. Chính quyền Taliban giết chết nhiều nhân viên ngoại giao Iran
trong thời gian đánh chiếm Maze -e Sharif, làm cho quan hệ với Iran càng thêm
căng thẳng. Ngày 20/8, Hoa Kỳ phóng tên lửa Cruise vào phía Nam Kabul, và những
ngày sau đó phóng vào những nơi mà Mỹ cho là có trại huấn luyện quân khủng bố,
do nhà kinh doanh Saudi Arabia tên Osama bin Laden điều khiển.
Ngày
14/11/1999, Liên Hiệp Quốc áp đặt lệnh cấm vận lên Afghanistan, khi nước này từ
chối dẫn độ bin Laden đến Hoa Kỳ để xét xử tội khủng bố. Liên Hiệp Quốc cũng
cấm các nước viện trợ quân sự cho chính quyền Taliban có hiệu lực từ ngày
9/1/2001. Tháng 3, cơ quan trợ giúp nhân đạo tường trình về tình trạng hạn hán,
và chiến tranh kéo dài đã đẩy hơn một triệu cư dân lâm vào cảnh thiếu đói trầm
trọng. Trong khi đó, Chính quyền Taliban tiến hành triệt phá hàng loạt các di
tích thời Cổ đại không phải Hồi giáo. Ngày 9/9/2001, Ahmed Shah Massoud lãnh tụ
tổ chức kháng chiến chống lại phe Taliban chết, trong vụ ôm bom tự sát của một
cảm tử quân giả dạng nhà báo. Ngày 11.9.2001, nhiều tên khủng bố cướp 3 chiếc
máy bay tấn công vào hai toà nhà Trung tâm Thương mại Thế gới, và Ngũ Giác Đài
- Bộ Quốc phòng Mỹ.
Hoa Kỳ buộc
tội Osama bin Laden, và yêu cầu chính quyền Taliban dẫn độ ông ta sang Mỹ để
truy tố về tội khủng bố, và đóng cửa hệ thống khủng bố của Al-Qaeda. Ngày 7.10,
Hoa Kỳ với sự trợ giúp của Anh quốc bắt đầu ném bom Afghanistan, sau khi chính
quyền Taliban từ chối yêu cầu của Mỹ. Dưới sự hỗ trợ của quân đội Hoa Kỳ, ngày
9.11, Liên minh đối kháng phía Bắc đánh chiếm Mazar-e Sharif. Và 4 ngày sau đó
tái chiếm Kabul, Chính quyền Taliban rời Kabul chuyển về Kandahar. Và ngày
7.12, lực lượng Taliban rời bỏ Kandahar cứ điểm cuối cùng chạy về phía Nam -
vùng đất của bộ tộc du mục. Ngày 5.12.2001, một thoả ước phân chia quyền lực
của 4 phe phái chính trị chống chính quyền Taliban được ký tại Bonn, Đức quốc,
theo đó một chính quyền Lâm thời được thành lập, do Hamid Karzai lảnh tụ bộ tộc
Pashtun cầm đầu.
Ngày
20.12.2001, một lực lượng an ninh đa quốc gia do Liên Hiệp Quốc điếu phối đến
Afghanistan, cùng với Hoa Kỳ duy trì an ninh, và tiếp tục săn lùng Osama bin
Laden người mà cho đến nay chưa ai biết được còn sống hay đã chết. Ngày
21-22/01/.2002, tại một Hội nghị ở Tokyo Nhật Bản, các quốc gia và tổ chức quốc
tế quyên góp, và cam kết sẽ cấp 4,5 tỷ USD viện trợ cho Afghanistan trong vòng
5 năm tới. Tại phiên họp ngày 13.6 ở Kabul, Hội đồng Điều hành theo tập tục
(loya jirga) bầu chọn Karzai cầm đầu Chính quyền chuyển tiếp. Đêm 30.6 rạng
ngày 1.7/2002, máy bay tuần thám Mỹ bắn nhầm vào một địa điểm ở Kakarak phía Bắc
Kandahar giết chết 48 người tại nơi họ đang tiến hành một đám cưới. Ngày 6.7,
một nhóm vũ trang ám sát Phó tổng thống Haji Abdul Qadir sắc tộc Pashtun.
Ngày 5.9, một
xe cài bom phát nổ giết chết 26 người tại Kabul. Cùng ngày này lực lượng bảo vệ
Mỹ cứu thoát Tổng thống Karzai khỏi một vụ mưu sát. Đến cuối năm 2002, tình
hình sản xuất thuốc phiện lậu tăng nhanh ở Afghanistan. Ngày 1/3/2003, Hoa Kỳ
tuyên bố kết thúc các cuộc hành quân lớn ở Afghanistan, nhưng vẫn duy trì quân
đội tại đó để bảo vệ an ninh. Các cuộc tấn công nhân viên cứu trợ của Liên Hiệp
Quốc tại nhiều vùng phía Nam Afghanistan gia tăng, khiến họ phải tạm ngưng hoạt
động ngày 10/8. Ngày 11/8/2003, lực lượng giữ gìn hòa bình của khối NATO chính
thức đảm trách vai trò tại Afghanistan. Một Hiến pháp mới có hiệu lực thi hành
kể từ ngày 26/1/2004. Ngày 2/6/ nhóm bác sỉ không biên giới tạm ngưng hoạt động
ở Afghanistan sau khi 5 nhân viên thiện nguyện của họ bị Taliban phục kích giết
chết.
Ngày
10/6/2004, 11 công nhân làm đường và bảo vệ người Trung Quốc bị giết bởi các
tay súng không rỏ xuất xứ. Đến giữa năm 2004, còn lại khoảng 6.500 trong tổng
số 20.000 quân của Hoa Kỳ và NATO hoạt động ở Afghanistan, bảo vệ an ninh cho
người nước ngoài giúp tái thiết Afghanistan. Vì lý do an ninh, sau vụ mưu sát
hụt Tổng thống Karzai ngày 16/9 và Phó tổng thống ngày 20/9, cuộc bầu cử Tổng
thống hoãn lại gần 1 tháng. Ngày 9/10/2004, tiến hành bầu cử Tổng thống, Hamid
Karzai đắc cử với 55,4% phiếu bầu. Trong cuộc bầu cử 249 đại biểu Quốc hội ngày
18/9/2005, bất chấp những đe dọa, và hơn 20 cuộc tấn công giết chết 14 người,
hàng triệu người vẫn hăn hái đi bầu. Kết quả, các Lãnh chúa hiếu chiến, và
những người theo họ chiếm đa số ghế.
Cuộc chiến
đầy cam go từ hơn 4 năm qua, trở nên khốc liệt hơn vào tháng 3/2006, khi một
làn sóng người ôm bom tự sát, hỏa tiển, pháo kích và những vụ tấn công bởi quân
Taliban nhắm vào quân đội lẫn thường dân. Chính quyền trung ương mất dần quyền
kiểm soát các vùng xa xôi, dẫn đến việc trồng cây thuốc phiện gia tăng. Một báo
cáo cho hay thuốc phiện thu hoạch tại Afghanistan trong vụ mùa năm 2007 lên đến
8.200 tấn, chiếm 93% lượng thuốc phiện bất hợp pháp của thế giới. Do hạn hán
kéo dài lượng thuốc phiện thu hoạch năm 2008 chỉ còn 7.700 tấn. Từ nơi trú ẩn
ượt qua biên giới Pakistan, những tay ôm bom tự sát Hồi giáo, kết hợp với quân
Taliban gia tăng hoạt động trong năm 2007 và 2008. Một vụ tấn công bằng bom ở
phía Bắc Afghanistan giết chết 77 người trong đó có 61 học sinh tại một trường
học.
Một nổ lực ám
sát Tổng thống Kazai không thành khi ông ta dự khán cuộc diển hành quân sự tại
Kabul ngày 27/4/2008, để lại 3 người chết, và 11 người bị thương. Cuộc chiến
trở nên khốc liệt ở Kandahar, nơi chỉ riêng vụ ôm bom tự sát tại cuộc đua chó
ngày 17/2, đã giết chết hơn 100 người. Đêm 13/6, quân Taliban tấn công vào trại
tù Sarposa giải phóng 1.200 tù nhân, trong đó có hơn 350 phiến quân Taliban.
Ngày 7/7, xe bom nổ tại Sứ quán Ấn Độ ở Kabul giết chết 58 người, và ngày 13/7,
khoảng 200 quân Taliban phục kích đoàn xe đang di chuyển của NATO tại Đông bắc
gần biên giới Pakistan giết chết 9 quân nhân Mỹ. Và, không quân Mỹ cũng tăng
cường các vụ oanh tạc nhắm vào mục tiêu chọn sẵn, trong đó có làng Azizabad
phía Tây tỉnh Heart, nơi mà Mỹ tin rằng có Taliban ở đó, giết chết 90 thường
dân.
Trong nổ lực
tái thiết Afghanistan, tại cuộc họp ngày 12/6/2008, các nước cấp viện đã cam
kết trợ giúp thêm 21 tỷ, cho các dự án xây dựng, và chống lại nghèo đói, bệnh
tật, bạo loạn và triệt phá cây thuốc phiện. Xin lưu ý rằng, chỉ có khoảng 15/25
tỷ đã cam kết từ năm 2002 được tháo khoán. Ngày 17/2/2009, tổng thống Obama
tuyên bố, nhằm ổn định tình hình Afghanistan, Hoa Kỳ sẽ tăng thêm 17.000 quân.
Gần đây, Taliban gia tăng các cuộc tấn công và các vụ ôm bom tự sát, chỉ riêng
ngày bầu cử tổng thống 20/8/2010 cũng giết chết ít nhất 30 người. Kazai tái đắc
cử nhiệm kỳ 2 giữa các lời tố giác là gian lận. Sau khi tái kiểm các phiếu bầu,
ngày 7/11 Ủy ban bầu cử công bố Kazai thắng cử, và tuyên thệ nhậm chức ngày
19/11 bất chấp sự ngờ vực về phương cách giải quyết cuộc chiến và tệ nạn tham
nhũng trong chính phủ.
Ngày 1/12
tổng thống Obama tuyên bố sẽ gởi thêm 30.000 quân tới Afghanistan, với lời cam
kết sẽ rút hết quân bắt đầu từ 18 tháng đến. Đến tháng 7/2010, Hoa Kỳ có trên 95.000
quân, các nước đồng minh trong khối NATO là 41.000. Số quân nhân thiệt mạng
cũng gia tăng từ 295 người năm 2008, tăng thành 521 năm 2009, và từ tháng 1 đến
tháng 8 năm 2010 là 490 người. Kể từ
tháng 10/2001 đến tháng 8/2010, có hơn 2.000 quân đồng minh tử vong, trong đó
Hoa Kỳ 1.200, Anh Quốc trên 330, Canada trên 150. Chiến phí cho chiến trường
Afghanistan tính đến giữa năm 20108đã lên đến 300 tỷ. Theo sự tính toán của
Liên Hiệp Quốc thì 6 tháng đầu năm 2010, số dân thường Afghanistan chết 1.271,
và 1.997 bị thương, cao hơn 31% so với cùng thời kỳ năm 2009.
B. Afghanistan ngày nay.
Hiến pháp và
Chính quyền: Sau Hội nghị Bonn, Đức quốc do Liên Hiệp Quốc bảo trợ tháng
11/2001, ngày 22/12/2001, một chính quyền chuyển tiếp được trao nhiệm vụ quản
lý xã hội và tái thiết cho đến khi chính quyền thứ hai chính thức thành lập. Và
chính quyền thứ hai là kết quả của Hội nghị Lập pháp họp từ ngày 10 đến ngày
16/6/2002, lập Quốc gia Hồi giáo Afghanistan với nhiệm vụ soạn thảo Hiến pháp
mới cho Afghanistan. Dự thảo Hiến pháp được công bố, thảo luận công khai trong
tháng 11/2003, và được Hội đồng Lập pháp chấp nhận ngày 4/1/2004. Hiến pháp quy
định một Tống thống có quyền hạn rộng rãi, một Quốc hội lưỡng viện: Hạ viện có
249 đại biểu do dân bầu với nhiệm kỳ 5 năm. Thượng viện có 102 Nghị sĩ: 1/3 được
bầu trực tiếp từ 3 Vùng, với nhiệm kỳ 4 năm. 1/3 được bầu lên từ các Hội đồng
quận hạt. 1/3 còn lại do Tổng thống chỉ định với nhiệm kỳ 5 năm. Tổng thống chỉ
định Hội đồng Nội các có sự chấp thuận của Quốc hội.
Cư dân và
lãnh thổ: Con người: Dân số: 29.121.000, dưới 15 tuổi 42,9%, trên 65 tuổi 2,4%.
Mật độ dân cư: 44,6 người/km2. Thành phố: 23%. Sắc tộc: Pashtun 42%, Tajik 27%,
Hazara 9%, Uzbek 9%. Ngôn ngữ: Dari (Afghan Persian), Pashtu (chính cả
hai),Turkic (gồm Uzbek, Turkmen), Balochi, Pashai, và nhiều ngôn ngữ khác. Tôn
giáo: Hồi giáo, trong đó hệ phái Sunni 80%, Shi’a 19%. Đất đai: Tổng diện tích:
647.500 km2. Diện tích đất: 647.500 km2. Địa điểm: Tây Nam Á, phía tây bắc tiểu
lục Ấn Độ. Quốc gia láng giềng: Pakistan phía đông nam. Iran phía tây. Turkmenistan,Tajikistan,
Uzberkistan phía bắc. Mủi phía đông bắc kéo dài đến tận Trung Quốc. Địa thế:
Quốc gia bao quanh với núi rừng, nhiều nơi cao đến 4000 fts trên mặt nước biển
trung bình. Núi Hundu Kush cao hơn 16.000 fts. Kabul và có nơi đạt tới điểm cao
25.000ft về phía đông. Giao thông với Pakistan phải thông qua 56 km đường đèo
Khyber. Thời tiết khô, nóng với nhiệt độ cao và có một số sa mạc lớn. Dù thế,
sông núi cũng sản sinh ra nhiều bình nguyên màu mỡ. Thủ đô: Kabul: 3.573.000 cư
dân.
Chính trị và
kinh tế: Loại chính quyền: Cộng hoà Hồi giáo. Nguyên thủ quốc gia và cầm đầu
chính phủ: Tổng thống Hamid Karzai, sinh 24/12/1957, nhậm chức 19/6/2002 (tái bầu
2010). Chính quyền địa phương: 32 tỉnh. Ngân sách quốc phòng: 180 triệu. Quân
đội chính quy: 93.800. Kinh tế: Công nghiệp: hàng dệt, xà phòng, trang trí nội
thất, giày dép. Nông sản: Lúa mì, đầu phụng, trái cây, len. Tài nguyên: dầu
lửa, khí đốt, đồng, than đá, kim loại trắng không gỉ, kim loại trắng cứng hơi
xanh, chì, quặng sắt, muối, đá quý. Dự trử nhiên liệu: không có số liệu. Đất
nông nghiệp: 12%. Chăn nuôi: trâu bò 4,5 triệu, gà 8,4 triệu, dê 6,5 triệu, cừu
10 triệu. Đánh cá: 1.000 tấn. Sản xuất điện: 825 triệu Kwh. Phân bố lao động và
đóng góp vào Tổng sản lượng quốc gia: nông nghiệp 78,6%, đóng góp 60%; công
nghiệp 5,7%, đóng góp 20%; dịch vụ 15,7%, đóng góp 20%.
Tài chính và
an sinh: Đơn vị tiền tệ: Đồng Afghani (tháng 9/2010: 44,3=1USD). Tổng sản phẩm
nội địa: 27 tỷ. Bình quân đầu người: 1.000. Tăng trưởng: 22,5%. Nhập khẩu: 5,3 tỷ. Bạn hàng: Pakistan 38,8%,
Hoa kỳ 12,3%, Đức 7,4%, Ấn Độ 5,2%, Turkmenistan 4%. Xuất khẩu: 547 triệu. Bạn
hàng: Ấn Độ 22,1%, Pakistan 21,1%, Hoa Kỳ 14,7%, Anh 6,3%, Dan Mạch 5,5%, Phấn
lan 4,3%. Du lịch: không có số liệu. Ngân sách quốc gia: 3,3 tỷ. Nợ nước ngoài:
8,5 tỷ. Giá cả tiêu thụ: không có số liệu. Vận chuyển: Đường xe lửa: 24 km.
Bằng xe hơi: 41.000 lượt xe, xe hơi cá nhân: 100.000. Bằng máy bay: bay 144
triệu km, sân bay: 12. Truyền thông: Máy truyền hình: 14/1000 cư dân. Radio:
136/1000. Điện thoại: 0,5/100. Internet: 3,6/100 người sử dụng. Sức khoẻ y tế:
Tuổi thọ: nam 44,5 nữ 44,9. Sinh xuất: 38,1/1000 cư dân. Tử xuất: 17,7/1000.
Tăng dân số tự nhiên: 2,0%. Chết trước tuổi trưởng thành: 151,5/1000 trẻ sơ
sinh. Nhiểm bệnh AIDS: không có số liệu. Giáo dục: tuổi cưỡng bức đi học 6-15,
biết đọc biết viết 28,1%, trung học 22%, đại học 2%.
Tham gia tổ
chức quốc tế: Liên Hiệp Quốc (UN) và các tổ chức phụ thuộc của nó như Lương
nông Thế giới (FAO), Ngân hàng Thế giới ( IBRD), Lao động Thế giới (ILO), Quỹ
tiền tệ Thế giới (IMF), Y tế Thế giới (WHO).
A. Tiến trình phát triển.
Trước
Muhammad bán đảo Arab bị chia thành những Vương quốc nhỏ cho các bộ tộc hiếu
chiến. Và, tại các thời điểm khác nhau nó luôn bị cai trị bởi những người Ả Rập
lớn hơn, mạnh hơn nhưng không có một Vương quốc thống nhất. Đầu thế kỷ thứ 7
Sau công nguyên (SCN), Muhammad là người đầu tiên thống nhất bán đảo Ả Rập. Sau
đó, những người kế vị ông ta xâm lược toàn bộ vùng phía Đông và Bắc Châu Phi,
truyền bá đạo Hồi (Islam) và ngôn ngữ Ả Rập. Chẳng bao lâu sau, bán đảo Ả Rập
tự nó trở lại trạng thái như trước. Nejd, miền Trung Ả Rập là một quốc gia độc
lập, và là trung tâm quyền lực của giáo phái Wahhabi, bị rơi vào tay Thổ Nhĩ Kỳ
từ thế kỷ 18. Năm 1913, Saud người lập
ra vương triều Saudi lật đổ chính quyền Thổ và đánh chiếm thêm tỉnh Hasa của
Thổ nằm phía Đông bán đảo Arabia.
Saud đánh
chiếm phần phía Tây là Hejaz năm 1925, và phần phía Tây Nam bán đảo là Asir năm
1926. Thế là Vương triều Saudi Arabia thống trị một vùng rộng lớn, gần 2 triệu
km2 trên bán đảo Arabia. Việc khám phá ra dầu lửa trong thập niên 1930, đã mang
lại nhiều thuận lợi cho vương quốc nầy phát triển. Vương triều Saudi tồn tại
cho đến khi ông ta chết năm 1953. Chức Vua từ đó truyền cho các con trai của
ông ta. Nhà Vua thực hiện quyền hành cùng với Hội đồng Bộ trưởng. Luật Hồi giáo
cũng là Luật cai trị đất nước. Vui chơi giải trí công cộng và uống rượu bị giới
hạn, phụ nữ trong đời sống và xã hội có vị trí thấp hơn nam giới. Không có Hiến
pháp và cũng không có Quốc hội, chỉ có một Hội đồng cố vấn thành lập bởi nhà
Vua năm 1993. Saudi Arabia tự nhận mình là đồng minh của Hoa Kỳ và các quốc gia
phương Tây.
Saudi sử dụng
hàng tỷ Đôla mua trang thiết bị quân sự từ Anh, Pháp và Hoa Kỳ. Tuy nhiên, việc
phương Tây ủng hộ Do Thái (Israel) thường đưa đến những căng thẳng giữa họ.
Quân đối Saudi chiến đấu chống lại Israel năm 1948 và 1973 trong hai cuộc chiến
tranh giữa khối à Rập và Israel. Bắt đầu từ cuộc chiến tranh Arab - Israel năm
1967, hàmh năm Saudi Arabia cung cấp cho Ai Cập (Egypt) một số tiền lớn. Sự trợ
giúp này sau đó được mở rộng cho cả chính quyền Syria, Jordan, và các nhóm
trong tổ chức Palestine, cũng như các Quốc gia Hồi giáo khác. Nhà vua Faisal
nắm giữ vai trò chính trong vụ cấm bán dầu lửa của khối Ả Rập cho Hoa Kỳ năm
1973-1974. Thái tử Khalid kế vị nhà vua ngày 25/3/1975, sau khi Faisal bị ám
sát. Ngày 13/61982, sau khi Khalid chết thì ngôi vua đựơc kế vị bởi Fahd.
Hejaz vẫn còn
là một thành phố linh thiêng của đạo Hồi. Medina nơi có di tích, lăng tẩm, và
thánh đường của nhà tiên tri Muhammad, còn Mecca nơi sinh trưởng của ông ta.
Hơn 2 triệu tín đồ Hồi giáo hành hương đến Mecca hàng năm. Năm 1987, người Iran
hành hương đến Mecca đánh nhau với những người Iran chống hành hương, và cảnh
sát Saudi giết chết hơn 400 người. Ngày 2/7/1990, khoảng 1.426 người hành hương
Hồi giáo chết bởi một cuộc chạy loạn trong đường hầm đi bộ dẫn tới Mecca. Ngày
26/5/1994, gần 300 người hành hương bị chết trong một cuộc chạy loạn khác ở
Mecca. Ngày 15/4/1997, hơn 340 người hành hương chết trong vụ hoả hoạn lều trại
gần Mecca. Sau vụ tấn công đánh chiếm Kuwait của Iraq ngày 2/8/1990, Saudi
Arabia nhận gia đình nhà vua Kuwait và hơn 400.000 người tỵ nạn Kuwait.
Vua Fahd kêu
gọi quân đội Arab và phương Tây lập tuyến phòng ngự trên đất Bán đảo để hỗ trợ
cho lực lượng quốc phòng của Saudi. Trong chiến tranh vùng Vịnh Persia, 28 binh
sỹ Hoa Kỳ bị giết khi một hoả tiễn Iraq bắn vào doanh trại của họ ở Dhahran
ngày 25/2/1991. Các quốc gia phía Bắc bờ vịnh phải hứng chịu nhiều khói độc bởi
vì Iraq đã đốt phá các giếng dầu mỏ của Kuwait. Ngày 13.11.1995 nhóm Hồi giáo
quá khích bị cáo buộc vụ ném bom vào xe chở quân tại một Trung tâm Huấn luyện
quân sự giết chết 7 người trong đó có 5 người Mỹ. Và trong một vụ ném bom khác
tương tự giết chết 19 người Mỹ tại một căn cứ quân sự ở Dhahran ngày 25.6.1996.
Chính phủ Hoa kỳ chính thức lập lại lời phiền trách Chính phủ Saudi đã không
hợp tác đầy đủ trong việc điều tra tìm ra thủ phạm.
Hiện tại thì
15 trong số 19 tên không tặc tham gia vào vụ tấn công Trung tâm Thương mại Thế
giới và Ngũ giác đài ngày 11.9.2001, là người Saudi tạo ra mối căng thẳng mới
giữa hai chính phủ Hoa Kỳ và Saudi. Sự khác nhau về sách lược trong các vân đề
tranh chấp Israel-Palestine và Iraq cũng là nguyên nhân làm cho sự căng thẳng
lớn hơn. Với trọng bệnh của vua Fahd, em trai cùng cha khác mẹ, Hoàng thân
Abdullah nắm giữ vai trò lãnh đạo chính quyền Saudi trong những năm gần đây. Bỏ
ra ngoài các sự bất đồng giữa hai nước, khi Hoa Kỳ nhận được lời cảnh báo rằng
có trên 100 người nước ngoài bị giết tại Saudi Arabia trong năm 2003-2004.
Chính quyền Saudi Arabia cũng từng bước hợp tác nhiều hơn với Hoa Kỳ trong việc
chống khủng bố.
Tháng 9/2004,
chính phủ Saudi tuyên bố sẽ tổ chức bầu cử Hội đồng Tự trị cho tất cả các đơn
vị tự quản vào đầu năm 2005. Và, cuộc bầu cử đã diễn ra từ tháng 2 đến tháng
4/2005. Phụ nử không có quyền bầu cử. Không có đảng phái chính trị. Các ứng
viên độc lập hậu thuẩn cánh Tăng lử Hồi giáo Bảo thủ chiếm đa số ghế tại hầu
hết các Hội đồng. Ngày 1/8/2005, khi Vua Fahd chết, Hoàng thân Crown Abdullah
người em cùng cha khác mẹ, chi phối quyền hành từ khi vua Fahd bị đột quỵ từ
tháng 11/2005, được chỉ định kế thừa ngôi Vua. Ngày 24/2/2006, Vệ binh đã chận
đứng được vụ ôm bom tự sát tấn công kho nhiên liệu khổng lồ tại Abqaiq. Ngày
27/4/2007, lực lượng an ninh công bố bắt giữ và truy tố 172 người trong một âm
mưu tấn công vào các nhà máy lọc dầu, cơ sở quân sự và nhiều mục tiêu khác.
Ngày
6/11/2007, vua Abdullah hội kiến với Giáo hoàng Benrdict tại Vatican lần đầu
tiên giữa một nhà lảnh đạo Thiên chúa giáo La Mã với nhà vua Saudi Arabia. Ngày
20/3/2008, dân quân Hồi giáo cực đoan tấn công vào một nơi đang tập huấn của
40.000 tu sỉ Hồi giáo. Nhà vua Abdullah bảo trợ cho một Hội nghị toàn cầu về
niềm tin tại Tây Ban Nha từ 16-18/7. Giá dầu thế giới tăng cao từ năm
2004-2008, làm cho công khố Saudi Arabia có thêm 500 tỷ đưa vào các chương
trình phát triển kinh tế, và tái thiết Mecca. Ngày 27/9/2009, một vụ ôm bom tự
sát nhắm vào Bộ trưởng Nội vụ Muhammad bin Nayef, nhưng chỉ làm bị thương. Al-Qaeda
nhận trách nhiệm. Ngày 24/3/2010, giới chức có thẩm quyền công bố trong 6 tháng
qua đã bắt giam 113 du kích quân bị tình nghi có âm mưu tấn công khủng bố.
B. Saudi Arabia ngày nay.
Hiến pháp và
Chính quyền: Luật Hồi giáo (Sharia) chi phối Luật Hiến pháp. Không có Luật Hiến
pháp chính thức, nhưng Sắc luật ngày 1/3/1992, của Vua Abdullah Ibn
Abdullahziz, được xem như Luật cơ bản để tổ chức chính quyền. Theo đó, thì hệ thống
chính quyền gồm: chính quyền Trung ương, chính quyền Địa phương, và Hội đồng Tư
vấn. Hội đồng Tư vấn được thành lập tháng 8/1993, gồm 60 thành viên đều là
ngưòi trong Hoàng gia do nhà Vua chỉ định. Chủ tịch Hội đồng là Salih bin
Abdullah bin Hemaid. Tháng 7/1997, một Sắc lệnh của nhà Vua trao thêm quyền hạn
cho Hội đồng, và tăng số thành viên lên 90 người gồm các khoa học, và nhân sĩ.
Năm 2001, số thành viên của Hội đồng Tư vấn tăng lên tới 120 người. Tháng
10/2004, Chính quyền Trung ương công bố chương trình bầu cử. Theo đó, chính
quyền cấp Địa phương sẽ được bầu cử vào năm 2004, kế đến là cấp Thành phố, và
trong các năm sau sẽ bầu từng phần Quốc hội. Năm 2005, Hội đồng Tư vấn tăng lên
thành 150 thành viên. Hội đồng Tư vấn không có quyền Lập pháp. Nhà Vua nắm
quyền Thủ tướng và có quyền phủ quyết quyết định của Hội đồng Bộ trưởng.
Cư dân và lãnh thổ: Con người: Dân số 25.731.000,
dưới 15 tuổi 38%, trên 65 tuổi 2,5%. Mật độ dân cư: 12 người/km2. Thành phố: 81,9%.
Sắc tộc: Arab 90%, Afro-Asian 10%. Ngôn ngữ: Arabic (chính). Tôn giáo: Hồi giáo
100%. Đất đai: Tổng diện tích: 2.149.690 km2. Diện tích đất: 2.149.690 km2. Địa
điểm: Chiếm hầu hết bán đảo Arab ở Trung Đông. Quốc gia láng giềng: Kuwait,
Iraq, Jorden ở phía bắc. Yemen, Oman phía nam. United Arab Emirates, Qata ở
phía đông. Địa thế: bờ biển Đỏ về phía tây. Địa diểm: phía Tây Saudi là cao
nguyên có nơi cao tới 9000ft, đất đai khô cằn, sa mạc nóng bức đến tận vịnh
Persia phía đông. Thủ đô: Riyadh. Thành phố đông dân: Riyadh 4.725.000 cư dân,
Jeddah: 3.161.000, Mecca: 1.451.000, và Medina 1.073.000 cư dân.
Chính trị và
kinh tế: Loại chính quyền: Quân chủ lập hiến. Nguyên thủ quốc gia và cầm đầu
chính phủ: Vua Abdullah bin Abdul Aziz , sinh 1/8/1924, nhậm chức 1/8/2005.
Chính quyền địa phương: 13 tỉnh. Ngân sách quốc phòng: 41,2 tỷ USD. Quân đội
chính quy: 233.500. Kinh tế: Công nghiệp: khai thác chế biến dầu khí, xi măng,
phân bón, chất dẻo,và xây dựng. Nông sản: lúa mỳ, lúa mạch, cà chua, chanh,
cam, chà là, và các loại trái cây. Tài nguyên: dầu lửa, khí đốt, vàng, đồng,
quặng sắt. Dự trữ nhiên liệu: 266,8 tỷ thùng. Đất nông nghiệp: 2%. Chăn nuôi:
trâu bò 372.000, gà 145 triệu, dê 2,2 triệu, cừu 7 triệu. Đánh cá: 81.057 tấn.
Cung cấp điện: 182,1 tỷ Kwh. Phân bố lao động và đóng góp vào Tổng sản lượng quốc
gia: nông nghiệp 6,7%, đóng góp 5%; công nghiệp 21,4%, đóng góp 56%; dịch vụ
71,9%, đóng góp 36%.
Tài chính và
an sinh: Đơn vị tiền tệ: Đồng Riyal (tháng 9/2010: 3,7=1USD). Tổng sản lượng
nội địa: 592,3 tỷ. Bình quân đầu người: 20.600. Tăng trưởng: 0,1%. Nhập khẩu: 82,3
tỷ. Bạn hàng: Hoa Kỳ 12,2%, Đức 8,5%, Trung Quốc 7,9%, Nhật bản 7,2%, Anh 4,8%,
Italy 4,8%. Xuất khẩu: 189,7 tỷ. Bạn hàng: Nhật Bản 17,6%, Hoa Kỳ 15,8%, Nam
Triều tiên 9,6%, Trung Quốc 7,2%, Singapore 4,4%, Đài Loan 4,4%. Du lịch: 5,9 tỷ.
Ngân sách quốc gia: 146,7 tỷ. Dự trữ ngoại tệ: 261,3 tỷ. Dự trữ vàng: 10,3 triệu
ozt. Nợ nước ngoài: 34,4 tỷ. Giá cả tiêu thụ: tăng 5,1%. Vận chuyển: Đường xe
lửa: 1,391 km. Bằng xe hơi: 9,9 triệu lượt xe, xe hơi cá nhân không có số liệu.
Bằng máy bay: bay 22,5 triệu km, sân bay 77. Hải cảng: 2- Fiddah, Ad Dammam.
Truyền thông: Máy truyền hình: 263/1000 cư dân. Radio: 321/1000. Điện thoại:
16,2/100. Internet: 38,1/100 người sử dụng. Sức khoẻ y tế: Tuổi thọ: nam 71,9,
nữ 75,9. Sinh xuất: 19,4/1000 cư dân. Tử xuất: 3,3/1000. Tăng dân số tự nhiên: 1,6%.
Chết trước tuổi trưởng thành: 16,7/1000 trẻ sơ sinh. Nhiểm bệnh AIDS: không có
số liệu. Giáo dục: tuổi cưởng bức đi học 6-11, biết đọc biết viết 85,5% trung
học 66%, đại học 19%.
Tham gia tổ
chức quốc tế: Liên Hiệp Quốc (UN) và các tổ chức phụ thuộc của nó như Lương
nông Thế giới (FAO), Ngân hàng Thế giới ( IBRD), Lao động Thế giới (ILO), Quỹ
tiền tệ Thế giới (IMF). Hàng hải Thế giới (IMO), và Y tế Thế giới (WHO). Liên
đoàn Ả Rập (AL). Các quốc gia Xuất cảng dầu lửa (OPEC).
A. Tiến trình phát triển.
Kuwait lập
quốc năm 1759, bởi nhà vua Al Sabah. Phụ thuộc Anh quốc về quốc phòng và ngoại
giao từ năm 1899 cho đến khi độc lập năm 1961. Đa số cư dân không phải là người
Kuwait, trong đó có nhiều người Palestine không có quyền đầu phiếu. Dầu lửa là
nguồn thu nhập chính của quốc gia, và cũng là trụ cột cho kinh tế Kuwait. Dầu
lửa trả tiền an sinh xã hội, cung cấp y tế và giáo dục miễn phí cho cư dân.
Không có thuế khoá ở Kuwait ngoại trừ thuế xuất nhập khẩu. Các tàu chở dầu của
Kuwait đi và đến thường bị Iran tấn công, bởi vì sự ủng hộ của Kuwait cho Iraq
trong cuộc chiến tranh Iran - Iraq. Tháng 7/1987, tàu chiến Hải quân Hoa Kỳ bắt
đầu hộ tống tàu dầu Kuwait trong vùng vịnh Persia. Ngày 2/8/1990, Kuwait bị
quân đội Iraq xâm chiếm, vua Hồi đào thoát sang Saudi Arabia, lập một chính phủ
lưu vong.
Ngày 28/8,
Iraq tuyên bố Kuwait là tỉnh thứ 19 của Iraq. Sau nhiều tuần ném bom vào Iraq
và lực lượng Iraq chiếm đóng tại Kuwait, ngày 23/2/1991, Hoa Kỳ cầm đầu lực
lượng Liên quân tấn công quân chiếm đóng. Đến ngày 27/3/1991, quân đội Iraq tan
rã, và Kuwait được giải phóng. Có nhiều ghi nhận đáng ngờ rằng, Palestine và
một vài nước khác có hợp tác với Iraq trong cuộc xâm lăng Kuwait. Tổng thống
Hoa Kỳ lúc đó là George Bush thăm viếng Kuwait ngày 14-16/4/1993 và được hoan
nghênh như là vị lãnh đạo Liên quân trong chiến tranh vùng vịnh Persia đánh
đuổi Iraq ta khỏi Kuwait. Chính quyền Kuwait bắt giữ 14 người Iraq và người
Kuwait với lý do những người này có âm mưu ám sát Tổng thống Bush trong khi ông
ta thăm viếng xứ này. Ngày 4/6/1994, 13 người trong số đó bị kết án tử hình và
tù có thời hạn.
Ngày
27/8/2000, Hội đồng Bảo an Liên Hiệp Quốc quyết định trợ Iraq phải trả cho công
ty dầu khí Kuwait 15,9 tỷ USD để bồi thường thiệt hại cho các giếng dầu của
Kuwait mà Iraq đã gây ra trong chiến tranh vùng vịnh Persia. Ngày 28/3/2002,
Iraq công nhận sự độc lập hoàn toàn lãnh thổ Kuwait. Trong cuộc xâm lăng Iraq
tháng 3/2003, Liên quân Hoa Kỳ và Anh quốc thường xử dụng lành thổ Kuwait để
tập trung quân tiến đánh Iraq. Ngày 16/5/2005, mở rộng quyền chính trị đến phụ
nử, và ngày 12/6, lần đầu tiên phụ nử được chỉ định vào nội các. Ngày
15/6/2006, Thủ lảnh Hồi giáo Jaber cũng là Vua Kuwait từ trần, và Thủ tướng
Sabah trở thành Thủ lảnh và Vua Hồi mới ngày 29/1/2006.
Ngày
26/3/2009, Kuwait ban cấp 5,2 tỷ tài trợ cho các Ngân hàng và các nhà đầu tư để
cứu các tổ chức nầy vượt qua khủng hoảng tài chánh thaaes giới.
B. Kuwait ngày nay.
Hiến pháp và
Chính quyền: Thủ lỉnh Hồi giáo cũng là Vua làm nguyên thủ quốc gia. Năm 1990,
Hội đồng Quốc gia được thành lập gồm 50 đại biểu do dân bầu, và 25 đại biểu do
nhà Vua chỉ định. Năm 1992, Hội đồng Quốc gia nầy được thay thế bởi Quốc hội
Quốc gia mới gồm 50 đại biểu do dân bầu. Tháng 5/1999, Chính phủ chấp nhận dự
Luật cho phép phụ nữ được quyền đầu phiếu, không cần thông qua Quốc hội. Bảy
tháng sau, tháng 12/1999, Quốc hội hủy bỏ Luật cho phép phụ nử đầu phiếu. Tháng
5/2005, bằng một Đạo luật, Quốc hội chẳng những ban cấp quyền đầu phiếu mà còn
cho phụ nữ được quyền tham gia các chức vụ công cử. Tháng 4/2006, lần đầu tiên
phụ có chân trong Ủy ban Bầu cử. Và trong cuộc bầu cử Quốc hội tháng 6/2006,
người phụ nử được trọn quyền ứng cử và bầu cử. Quyền Hành pháp được trao cho
Hội đồng Bộ trưởng.
Cư dân và
lãnh thổ: Con người: Dân số: 2.789.000, dưới 15 tuổi 26,2%, trên 65 tuổi 3%.
Mật độ dân cư: 156,5 người/km2. Thành phố: 98,4%. Sắc tộc: Ã Rập 80% (Kuwaiti
45%, Ã Rập khác 35%) Nam Á 9%, Iranian 4%. Ngôn ngữ: Arab (chính), English. Tôn
giáo: Hồi giáo: 85%, trong đó Sunni 70% và Shi’a 30%. Tôn giáo khác 15%. Đất
đai: Tổng diện tích: 17.818 km2. Diện tích đất: 17.818 km2. Địa điểm: vùng
Trung Đông, cuối vịnh Persia về phía bắc. Quốc gia láng giềng: Iraq ở phía bắc.
Saudi Arabia phía nam. Địa thế: Quốc gia bằng phẳng, khô và nóng nhiều. Thủ đô:
Kuwait City 2.230.000 cư dân.
Chính trị và
kinh tế: Loại chính quyền: Quân chủ lập hiến. Nguyên thủ quốc gia: Thủ lĩnh Hồi
giáo Sabah al-Ahmad al-Jabir al-Sabah, sinh 6/6/1929, nhậm chức 29/1/2006. Thủ
tướng chính phủ: Sheikh Nasser al-Muhammad al-Ahmad as-Sabah, sinh 1940, nhậm
chức 7/2/2006. Chính quyền địa phương: 5 chính quyền tự trị. Ngân sách quốc
phòng: 6,6 tỷ USD. Quân đội chính quy: 15.500. Kinh tế: Công nghiệp: khai thác
và chế biến dầu khí, lọc mặn, chế biến thực phẩm, vật liệu xây dựng, xây dựng.
Tài nguyên: dầu lửa, khí đốt thiên nhiên, tôm, cá. Dự trữ nhiên liệu: 104 tỷ
thùng. Đất nông nghiệp: 1%. Chăn nuôi: trâu bò 28.000, gà 32.5 triệu, dê
160.000, cừu 900.000. Đánh cá: 6.203 tấn. Cung cấp điện: 48,9 tỷ Kwh. Phân bố
lao động và đóng góp vào Tổng sản lượng quốc gia: nông nghiệp 1%, đóng góp 1%;
công nghiệp 9%, đóng góp 59; dịch vụ 90%, đóng góp 40%.
Tài chính và
an sinh: Đơn vị tiền tệ: Đồng Dinar (tháng 9/2010: 0,29=1USD). Tổng sản lượng
nội địa: 142,1 tỷ. Bình quân đầu người: 52.800. Tăng trưởng: -1.7%. Nhập khẩu: 17,1
tỷ. Bạn hàng: Hoa Kỳ 14,1%, Nhật Bản 7,8%, Đức 7,7%, Saudi Arabia 6,8%, Trung
Quốc 5,7%, Anh quốc 5,4%. Xuất khẩu: 89,4 tỷ. Bạn hàng: Nhật Bản 20,2%, Nam
Triều Tiên 16%, Đài Loan 11,5%, Singapore 9,6%, Hoa Kỳ 8,9%, Hòa Lan 5,1%. Du
lịch: 257 triệu. Ngân sách quốc gia: 47,6 tỷ. Dự trữ ngoại tệ: 12,9 tỷ. Dự trữ
vàng: 2,5 triệu ozt. Nợ nước ngoài: 15,0 tỷ. Giá cả tiêu thụ: tăng 4%. Vận
chuyển: Đường xe lửa: không có số liệu. Bằng xe hơi: 919.000 lượt xe, xe hơi cá
nhân 215.000 chiếc. Bằng máy bay: bay 7,4 triệu km, sân bay: 4. Hải cảng: 1-
Mina al-Ahmadi. Truyền thông: Máy truyền hình: 480/1000 cư dân. Radio:
633/1000. Điện thoại: 18,5/100. Internet: 36,9/100 người sử dụmg. Sức khoẻ y
tế: Tuổi thọ: nam 76,6, nữ 79,2. Sinh xuất: 21,6/1000 cư dân. Tử xuất: 2,3/1000.
Tăng dân số tự nhiên: 1,9%. Chết trước tuổi trưởng thành: 8,8/ 1000 trẻ sơ
sinh. Nhiểm bệnh AIDS: không có số liệu. Giáo dục: tuổi cưỡng bức đi học 6-14,
biết đọc biết viết 94,5%, trung học 64%, đại học 19%.
Tham gia tổ
chức quốc tế: Liên Hiệp Quốc (UN) và các tổ chức phụ thuộc của nó như Lương
nông Thế giới (FAO), Ngân hàng Thế giới ( IBRD), Lao động Thế giới (ILO), Quỹ
tiền tệ Thế giới (IMF), Hàng hải Thế giới (IMO), và Y tế Thế giới (WHO). Liên
đoàn Ả Rập (AL). Các quốc gia Xuất cảng dầu lửa (OPEC).
A. Tiến trình phát triển.
Bahrain trong
một thời gian dài cai trị bởi gia đình nhà Khalifa. Từ năm 1861, Bahrain chịu
sự bảo hộ của Anh quốc. Ngày 15/8/1971, trở thành một quốc gia độc lập. Ngọc
trai, tôm, trái cây và rau quả là cột trụ chính của nền kinh tế Bahrain cho đến
khi dầu lửa được khám phá năm 1932. Đến thập niên 1970, trữ lượng dầu lửa giảm
sút trong khi tiền để dành tại ngân hàng quốc tế tăng nhanh. Bahrain là một
thành viên trong khối Ả Rập thực hiện việc cấm bán dầu chống lại Hoa Kỳ và các
quốc gia khác năm 1973-1974. Năm 1975, chính quyền mua nhiều phần hùn để nắm
công nghiệp dầu lửa. Từ năm 1996, hệ phái Hồi giáo gốc Iran là Shiite mâu thuẫn
với hệ phái Sunni đang lãnh đạo chính quyền. Thủ lãnh Hồi giáo (Emir) Hamad bin
Isa al-Khalifa tuyên bố ông ta là Vua của Bahrain ngày 14/2/2002.
Ba tháng sau
tháng 5/2002, lần đầu tiên phụ nữ Bahrain được tham gia bầu cử chính quyền địa
phương, và được phép vào làm việc cho chính quyền. Một phụ nử được bổ nhiệm vào
chức vụ thẩm phán. Cuộc bầu cử Quốc hội ngày 25/11 và ngày 2/12/2006, các ứng
viên Hồi giáo hệ phái Shia và Sunni chiếm đa số. Đảng đối lập Shia Ai Wefaq
chiếm 18 ghế, ứng viên độc lập 9 ghế.
B. Bahrain ngày nay.
Hiến pháp và
Chính quyền: Gia đình Hoàng gia Al-Khalifa nắm quyền lực từ năm 1783. Hiến pháp
mới ngày 14/2/2002 đồi tên Lảnh địa Bahrain thành Vương quốc Bahrain. Nó là
Hiến pháp Quân chủ Hồi giáo. Thủ lỉnh Hồi giáo cũng là Vua làm nguyên thủ quốc
gia. Quốc hội Lưởng viện được tấn phong ngày 14/12/2002. Hạ viện có 20 đại biểu
do dân bầu trực tiếp trong các khu vực bầu cử. Còn Thượng viện cũng có 20 đại
biểu gồm những chuyên gia được chỉ định bởi Chính quyền.
Cư dân và lãnh thổ: Con người: Dân số: 738.000,
dưới 15 tuổi 25,4%, trên 65 tuổi: 4,2%. Mật độ dân cư: 996 người/km2. Thành
phố: 88,6%. Sắc tộc: Bahraini 62%, Sắc tộc khác 38%. Ngôn ngữ: Arabic (chính),
English, Farsi, Urdu. Tôn giáo: Hồi giáo
81% (trong đó Shi'a 70%, Sunni 30%), Thiên chúa giáo 9%, tôn giáo khác 10%. Đất
đai: Tổng diện tích: 741 km2. Diện tích đất: 741 km2. Địa điểm: Tây Nam Á,
trong vịnh Persia. Quốc gia láng giềng: gần nhất là Saudi Arabia phía tây.
Qatar phía đông. Địa thế: Đảo Bahrain và nhiều đảo kế cận nhỏ hơn đều có đất
bằng phẳng, nóng và ẩm ướt, ít mưa. Thủ đô: Manama có 163.000 cư dân.
Chính trị và
kinh tế: Loại chính quyền: Quân chủ Hồi giáo. Nguyên thủ quốc gia: Thủ lỉnh Hồi
giáo Hamad bin Isa Al-Khalifa, sinh 28/1/1950, nhậm chức giáo chủ (as emir)
6/3/1999, lên ngôi Vua Bahrain ngày 14/2/2002. Thủ tướng chính phủ: Khalifa bin
Sulman al-Khalifa, sinh 24/11/1936, nhậm chức 19/01/1970. Chính quyền địa
phương: 12 chính quyền tự trị. Ngân sách quốc phòng: 697 triệu USD. Quân đội
chính quy: 8.200. Kinh tế: Công nghiệp: khai thác và chế biến dầu khí, luyện
kim nhôm, đắp bờ, sửa tàu. Nông sản: trái cây, rau quả. Tài nguyên: dầu lửa,
khí đốt thiên nhiên, cá, ngọc trai. Dự trữ nhiên liệu: 124,6 triệu thùng. Đất nông
nghiệp: 3%. Chăn nuôi: trâu bò 9.000, gà 470.000, dê 26.500, cừu 41.000. Đánh
cá: 15.596 tấn. Cung cấp điện: 10,3 Kwh. Phân bố lao động và đóng góp vào Tổng
sản lượng quốc gia: nông nghiệp 1%, đóng góp 1%; công nghiệp 79%, đóng góp 42%;
dịch vụ 20%, đóng góp 57%.
Tài chính và
an sinh: Đơn vị tiền tệ: Đồng Dinar (tháng 9/2010: 0,38=1USD). Tổng sản lượng
nội địa: 28,3 tỷ. Bình quân đầu người: 38.800. Tăng trưởng: 3,1%. Nhập khẩu: 11
tỷ. Bạn hàng: Saudi Arabia 37,3%, Nhật Bản 6,8%, Hoa kỳ 6,2%, Anh 6,2%, Đức 5%.
Xuất khẩu: 12,7 tỷ. Bạn hàng: Hoa kỳ
3,1%, Nam Triều Tiên 2,3%, Nhật Bản 2%. Du lịch: 1 tỷ. Ngân sách quốc gia: 5,8
tỷ. Dự trữ ngoại tệ: không có số liệu. Dự trữ vàng: 150.000 ozt. Nợ nước ngoài:
6,2 tỷ. Giá cả tiêu thụ: tăng 2,8%. Vận chuyển: Đường xe lửa: không có số liệu.
Bằng xe hơi: 187.000 lượt xe, xe hơi cá nhân 38.400 chiếc. Bằng máy bay: bay
5,9 tỷ km, sân bay 3. Hải cảng: 2- Manama, Sitrah. Truyền thông: Máy truyền
hình: 446/1000 cư dân. Radio: 640/1000. Điện thoại: 30,1/100. Internet: 82/100
người sử dụng. Sức khoẻ y tế: Tuổi thọ: nam 72,9, nữ 78. Sinh xuất: 16,8/1000
cư dân. Tử xuất: 4,4/1000. Tăng dân số tự nhiên: 1,2%. Chết trước tuổi trưởng
thành: 14,8% trên 1000 trẻ sơ sinh. Nhiểm AIDS: 0,2%. Giáo dục: tuổi cưỡng bức
đi học 6-15, biết đọc biết viết 90,8, trung học 93%, đại học 26%.
Tham gia tổ
chức quốc tế: Liên Hiệp Quốc (UN) và các tổ chức phụ thuộc của nó như Lương
nông Thế giới (FAO), Ngân hàng Thế giới ( IBRD), Lao động Thế giới (ILO), Quỹ
tiền tệ Thế giới (IMF), Hàng hải Thế giới (IMO), Y tế Thế giới (WHO), và Mậu
dịch Thế giới (WtrO). Liên đoàn Ả Rập (AL).
A. Tiến trình phát triển.
Qatar dưới
quyền cai trị của Bahrain, cho đến khi bị đế quốc Ottoman-Thổ Nhĩ Kỳ chiếm trị
năm 1872. Chiến tranh thế giới lần thứ I (1914-1918), Ottoman thua trận trong
năm 1915, và tại Hiệp ước năm 1916, Qatar được trao cho Anh quốc bảo hộ về quốc
phòng và ngoại giao. Cuối năm 1971, Anh quốc tuyên bố rút tất cả quân đội ra
khỏi vùng vịnh Persia. Qatar tìm kiếm một sự hợp nhất với các quốc gia bị bảo
hộ khác trong vùng thành một Liên bang, nhưng thất bại. Ngày 1/8/1971, Qatar
tuyên bố độc lập. Năm 1981, là thành viên sáng lập của Hội đồng Hợp tác vùng
Vịnh (GCC). Năm 1988, thiết lập quan hệ ngoại giao với Liên bang Xô viết, và
với Trung Quốc. Qatar tự cho mình là đồng minh của à Rập Saudi và các nước liên
quan khác trong vùng.
Sau khi Iraq
xâm lăng Kuwait. Năm 1991, Qatar cùng với Hoa Kỳ đánh Iraq ra khỏi Kuwait.
Tháng 1/1992, dưới sức ép đòi cải cách chính trị lên cao từ 50 nhân vật nỗi
tiếng, một Hội đồng Tư vấn ra đời. Ngày 27/6/1995, Thủ lảnh Hồi giáo cũng là
Vua Qatar là Sheikh Khalifa bị con trai của ông ta Sheikh Hamad lật đổ, Hamad
đưa ra chương trình cải cách dân chủ. Năm 1996, Hamad thoát chết trong một âm mưu
ám sát, nổ lực cuối vùng để khôi phục quyền bính của cha ông ta bị thất bại.
Năm 2001, vùng lãnh thổ tranh chấp lâu nay giữa Qatar và Bahrain được giải
quyết bởi tòa án quốc tế. theo đó Qatar thừa nhận chủ quyền của Bahrain trên
nhóm đảo Hamar, đổi lại Bahrain từ bỏ yêu sách phần đất trong nội địa Qatar.
Năm 2003,
Qatar ủng hộ Liên quân Hoa Kỳ-Anh quốc xâm lăng Iraq, cho phép Liên quân dùng
Doha làm Bộ Tư lệnh của Liên quân. Hiến pháp mới được cử tri chấp nhận trong
cuộc “trưng cầu dân ý” năm 2003, quy định 45 đại biểu Quốc hội, dân bầu 30 đại
biểu và 15 do nhà Vua chỉ định. Cũng năm nầy lần đầu tiên một phụ nữ được cử
làm Bộ trưởng trong Nội các.
B. Qatar ngày nay.
Hiến pháp và
Chính quyền: Hiến pháp Quân chủ Lập hiến thành văn đầu tiên của Qatar được thông
qua thàng 6/2004, và có hiệu lực thi hành ngày 5/9/2005. Hiến pháp quy định
Qatar được cai trị bởi Thủ lảnh Hồi giáo, một Quốc hội gồm 45 đại biểu, dân
trực tiếp bầu lên 30 đại biểu, thủ lảnh cũng là Vua chỉ định 15 đại biểu, và
một Hội đồng Bộ trưởng do 35 thành viên trong Hội đồng Cố vấn tuyển chọn.
Cư dân và
lãnh thổ: Con người: Dân số: 840.000, dưới 15 tuổi 21,8%, trên 65 tuổi 1,5%.
Mật độ dân cư: 72,6 người/km2. Thành
phố: 95,8%. Sắc tộc: Arab: 40%, Pakistani 18%, Indian 18%, Iranian 10%. Ngôn
ngữ: Arabic (chính), English. Tôn giáo: Hồi giáo 78%, Thiên chúa giáo 9%. Đất
đai: Tổng diện tích: 11.586 km2. Diện tích đất: 11,586 km2. Địa điểm: Vùng
Trung Đông nằm, trên bán đảo Arabia phía tây bờ vịnh Persia. Quốc gia láng
giềng: Saudi Arabia phía nam. Địa thế: Hầu hết là sa mạc bằng phẳng, với một ít
núi đá thấp các loại cây cỏ hiếm thấy. Thủ đô: Doha: 427.000 cư dân.
Chính trị và
kinh tế: Loại chính quyền: Quân chủ Hồi giáo. Nguyên thủ quốc gia: Thủ lĩnh Hồi
giáo Hamad bin Khalifa al-Thani, sinh 1952, nhậm chức 27/6/1995. Thủ tướng
chính phủ: Sheikh Hamad bin Jassim bin Jabir al-Thani, sinh ../../1959, nhậm
chức 3/4/2007. Chính quyền địa phương: 9 khu vực tự trị. Ngân sách quốc phòng:
1,7 tỷ USD. Quân đội chính quy: 11.800. Kinh tế: Công nghiệp: khai thác dầu và
chế biến dầu khí, phân bón, sản phẩm hoá dầu, vật liệu xây dựng. Tài nguyên:
dầu lửa, khí đốt thiên nhiên, cá. Dự trữ nhiên liệu: 15,2 tỷ thùng. Đất nông
nghiệp: 2%. Chăn nuôi: trâu bò 8.000, gà 4,5 triệu, dê 160.000, cừu 120.000.
Đánh cá: 16.412 tấn. Cung cấp điện: 18,5 tỷ Kwh. Phân bố lao động và đóng góp
vào Tổng sản lượng quốc gia: không có số liệu.
Tài chính và
an sinh: Đơn vị tiền tệ: Đồng Riyal (tháng 9/2010: 3,6=1USD). Tổng sản lượng
nội địa: 99,6 tỷ. Bình quân đầu người: 119.500. Tăng trưởng: 9,5%. Nhập khẩu: 20,9
tỷ. Bạn hàng: Pháp 13,3%, Nhật bản 10,1%, Hoa kỳ 9,3%, Italy 8,9%, Đức 7,8%,
Anh quốc 6,2%, Saudi Arabia 5,7%, Nam Triều tiên 4,5%. Xuất khẩu: 37,2 tỷ. Bạn
hàng: Nhật bản 39,8%, Nam Triều Tiên 18,6%, Singapore 6,4%, Thái Lan 4,1%. Du
lịch: 498 triệu. Ngân sách quốc gia: 28,3 tỷ. Dự trữ ngoại tệ: 11,7 tỷ. Dự trữ
vàng: 399.100 ozt. Nợ nước ngoài: 18,6 tỷ. Giá cả tiêu thụ: giảm -4,9%. Vận
chuyển: Đường xe lửa: không có số liệu. Bằng xe hơi: 267.800 lượt xe, xe hơi cá
nhân 123.300 chiếc. Bằng máy bay: bay 12,2 tỷ km, sân bay 3. Hải cảng: 2- Doha,
và Umm Said. Truyền thông: Máy truyền hình: 866/1000 cư dân. Radio: 450/1000.
Điện thoại: 20,2/100. Internet: 28,3/100 người sử dụng. Sức khoẻ y tế: Tuổi
thọ: nam 73,8, nữ 77,3. Sinh xuất: 15,5/1000 cư dân. Tử xuất: 2,4/1000. Tăng
dân số tự nhiên: 1,3%. Chết trước tuổi trưởng thành: 12,2/1000 trẻ sơ sinh.
Nhiểm bệnh AIDS: không có số liệu. Giáo dục: tuổi cưởng bức đi học 6-17, biết
đọc biết viết 93,1%, trung học 79%, đại học 26%.
Tham gia tổ
chức quốc tế: Liên Hiệp Quốc (UN) và các tổ chức phụ thuộc của nó như Lương
nông Thế giới (FAO), Ngân hàng Thế giới ( IBRD), Lao động Thế giới (ILO), Quỹ
tiền tệ Thế giới (IMF), Hàng hải Thế giới (IMO), Y tế Thế giới (WHO), và Mậu
dịch Thế giới (WtrO). Liên đoàn Ả Rập (AL). Các quốc gia Xuất cảng dầu lửa
(OPEC).
A. Tiến trình phát triển.
Thoả ước
(Trucial Sheikdoms) ngưng bắn, các Tiểu vương à Rập Emirates trao cho Anh quốc
nắm quyền ngoại giao và quốc phòng trong thế kỷ 19. Các Tiểu vương hợp nhất
thành Liên bang Ả rập Emirates ngày 2/12/1971. Công ty dầu lửa Abu Dhabi bị
quốc hữu hoá hoàn toàn năm 1975. Nguồn thu hàng năm từ dầu lửa mang về cho
Emirates một nguồn lợi lớn, trở thành một trong các quốc gia có thu nhập bình
quân đầu người cao nhất thế giới. Tiền gởi vào ngân hàng thế giới gia tăng
trong những năm gần đây. Quân đội Emirates cùng với Liên quân do Hoa Kỳ lảnh
đạo đánh đuổi Iraq ra khỏi Kuwait, quốc gia bị Iraq xam chiếm năm 1990. Sau vụ
những tên khủng bố cướp máy bay tấn công Hoa Kỷ ngày 11/9/2001, ngành Ngân hàng
Emirates bị đặt dưới sự kiểm soát nghiêm ngặt của bộ phận kiểm toán quốc tế.
Và, sau đó
Chính phủ Emirates ra lệnh phong tỏa các tổ chức tài chánh, và tài sản ký gởi
của 62 cá nhân, và tổ chức tình nghi vận động gây quỷ của bọn khủng bố. Tháng
3/2003, Liên bang Emirates cho phép Hoa Kỳ đặt căn cứ quân sự xâm lăng Iraq.
Trong những năm gần đây, Ngân hàng đầu tư và tái thiết quốc tế tăng nhanh,
trong đó quỷ đầu tư của chính quyền Abu Dhabi chiếm khoảng 550 tỷ tính đến
tháng 10/2008. Nhưng cuộc suy thoái toàn cầu cũng tác động không ít đến nền
kinh tế Emirates. Ngày 25/3/2010, chính quyền Dubai phải tung ra 9,5 tỷ để cứu
vãn các công ty đầu tư đang đứng bên bờ vựt thẵm. Có hơn 80% người nước ngoài
trong tổng số cư dân và lao động tư nhân tại các Tiểu vương à Rập Thống nhất
Emirates.
B. United Arab Emirates ngày nay.
Hiến pháp và
Chính quyền: Hiến pháp Emirates là Hiến
pháp Liên bang, đứng đầu là một Hội đồng cầm quyền gồm 7 thành viên, trong đó
họ sẽ bầu ra 1 Tổng thống, 1 Phó tổng thống với nhiệm kỳ 5 năm, và chỉ định 1
Hội đồng Bộ trưởng. Hội đồng Quốc gia Liên bang gồm 40 thành viên cũng đựơc chỉ
định từ 7 Tiểu bang. Hội đồng Bộ trưởng
đề nghị Luật, và Ngân sách Liên bang lên Hội đồng Quốc gia Liên bang. Hội đồng
nầy chỉ có quyền đề nghị tu chỉnh hay sửa đổi Luật hoặc Ngân sách, chứ không có
quyền bác bỏ. Theo một văn kiện được công bố trong tháng 12/2005, thì trong
tương lai Hội đồng Quốc gia Liên bang sẽ do dân trực tiếp bầu chia làm 2 đợt:
đợt 1 bầu 20 người, 20 người còn lại sẽ bầu trong đợt 2. Hiến pháp ban hành
tháng 12/1971, đang có hiệu lực thi hành được tu chỉnh trong năm 1996.
Cư dân và
lãnh thổ: Con người: Dân số 4.975.000, dưới 15 tuổi 20,4%, trên 65 tuổi 0,9%.
Mật độ dân cư: 59,5 người/km2. Thành phố: 83,7%. Sắc tộc: Emirati 19%, Arab,và
Iranian 23%, Nam Á 50%, khác 8%. Ngôn ngữ: Arabic (chính), Persian, English,
Hindi, Urdu. Tôn giáo: Hồi giáo 96%,
trong đó Shi’a chiếm 16%. Đất đai: Tổng diện tích: 83.600 km2. Diện tích đất:
83.600 km2. Địa điểm: Vùng Trung Đông bờ phía nam bờ vịnh Persian. Quốc gia
láng giềng: Saudi Arabia phía Tây và phía nam. Oman về phía đông. Địa thế: Một
khu vực bằng phẳng trải dài dọc theo bờ tới các đồi cát không người ở phía nam.
Dảy núi Hafar nằm phía đông. Thủ đô: Abu Dhabi. Thành phố đông dân: Dubai 1.518.000,
Abu Dhabi 666.000 cư dân.
Chính trị và
kinh tế: Loại chính quyền: Liên bang Hồi giáo. Nguyên thủ quốc gia: Tổng thống
Sheikh Khalifa bin Zaid al-Nahayan, sinh 1948, nhậm chức 3/11/2004. Thủ tướng
chính phủ: Sheikh Muhammad bin Rashid al-Maktum, sinh 1949, nhậm chức 5/1/2006.
Chính quyền địa phương: 7 khu vực Hồi giáo tự trị là Abu Dhabi, Ajman, Dubai,
Fujaira, Ras al-Khaimah, Sharjah, Umm al- Qaiwain. Ngân sách quốc phòng: 15,4
tỷ USD. Quân đội chính quy: 51.000. Kinh tế: Công nghiệp: khai thác và chế biến
dầu khí, đánh cá, vật liệu xây dựng, đóng tàu, ngọc trai, thủ công mỷ nghệ.
Nông sản: Rau quả, trái chà là, dưa đá. Tài nguyên: dầu lửa, khí đốt thiên
nhiên. Dự trữ nhiên liệu: 97,8 tỷ thùng. Đất nông nghiệp: 1%. Chăn nuôi: trâu
bò 125.000, gà 15,5 triệu, dê 1,6 triệu, cừu 615.000. Đánh cá: 87,570 tấn. Cung
cấp điện: 72,6 tỷ Kwh. Phân bố lao động
và đóng góp vào Tổng sản lượng quốc gia: nông nghiệp 7%, đóng góp 4%; công nghiệp
15%, đóng góp 58%; dịch vụ 78%, đóng góp 38%.
Tài chính và
an sinh: Đơn vị tiền tệ: Đồng Dirham (tháng 9/2010: 3,6=1USD). Tổng sản lượng
nội địa: 186,8 tỷ. Bình quân đầu người: 38.900 USD. Tăng trưởng: -2,7%. Nhập
khẩu: 144,5 tỷ. Bạn hàng: Hoa Kỳ 11,4%, Trung Quốc 11, Ấn Độ 9,8%, Đức 6,2%,
Nhật Bản 5,8%, Anh Quốc 5,5%, Pháp 4,1%, Italy 4%. Xuất khẩu: 174,7 tỷ. Bạn
hàng: Nhật Bản 25,9%, Nam Triều Tiên 10,3%, Thái Lan 5,9%, Ấn Độ 4,5%. Du lịch:
7,2 tỷ. Ngân sách quốc gia: 54,7 tỷ. Dự trữ ngoại tệ: 23,0 tỷ. Dự trữ vàng: không
có số liệu. Nợ nước ngoài: 55,9. Giá cả tiêư thụ: không có số liệu. Vận chuyển:
Đường xe lửa: không có số liệu. Bằng xe hơi: 321.600 lượt xe, xe hơi cá nhân
84.200 chiếc. Bằng máy bay: bay 54,6 tỷ km, sân bay 22. Hải cảng: 6 - Al Fujayrah,
KhawrvFakkan, Mina Jabal Ali, Mina Jashid, Mina Saqr, và Mina Zayid. Truyền
thông: Máy truyền hình: 309/1000 cư dân. Radio: 355/1000. Điện thoại: 34/100.
Internet: 82,2/100 người sủ dụng. Sức khoẻ y tế: Tuổi thọ: nam 73,8, nữ 79.
Sinh xuất: 16/1000 cư dân. Tử xuất: 2,1/1000. Tăng dân số tự nhiên: 1,4%. Chết
trước tuổi trưởng thành: 13,1/ 1000 trẻ sơ sinh. Nhiểm bệnh AIDS: không có số
liệu. Giáo dục: tuổi cưỡng bức đi học 6-14, biết đọc biết viết 90%, trung học
78%, đại học 13%.
Tham gia tổ
chức quốc tế: Liên Hiệp Quốc (UN) và các tổ chức phụ thuộc của nó như Lương
nông Thế giới (FAO), Ngân hàng Thế giới (IBRD), Lao động Thế giới (ILO), Quỹ
tiền tệ Thế giới (IMF), Hàng hải Thế giới (IMO), Y tế Thế giới (WHO), và Mậu
dịch Thế giới (WtrO). Liên đoàn Ả Rập (AL). Các quốc gia Xuất cảng dầu lửa
(OPEC).
18. OMAN
- SULTANATE OF OMAN.
A. Tiến trình phát triển.
Oman buổi đầu
gọi Muscat và Oman, trong một thời gian dài bị cai trị bởi nước ngoài kể cả của
Bồ Đào Nha trong thế kỷ 16. Năm 1744, người nước ngoài cuối cùng bị đuổi khỏi
Oman là người Persian. Đầu thế kỷ 19 Muscat và Oman là một trong các quốc gia
mạnh nhất trong vùng, nó cai trị nhiều vùng của Persia, bờ biển Pakistan và cai
trị luôn cả miền xa xăm Zanzibar. Năm 1861, Zanzibar tách ra khỏi Muscat và
Oman qua trung gian hoà giải của Anh Quốc. Sự ảnh hưởng của Anh lên Muscat-Oman
được xác lập bởi hiệp ước năm 1951. Thập niên 1950, Anh Quốc đã giúp Muscat dập
tắt nhiều cuộc bạo loạn cố hữu từ những bộ tộc du canh, du cư không muốn người
Muscat cai trị họ. Ngày 23/7/1970, thủ lãnh Hồi giáo Said bin Taimur bị lật đổ
bởi con trai ông ta.
Sau đó ông
này đổi tên nước thành quốc gia Hồi giáo Oman. Dầu lửa là nguồn thu nhập chính
của quốc gia. Oman cho phép phương Tây lập căn cứ quân sự trên lãnh thổ mình
sau cuộc xâm lăng của Iraq vào Kuwait ngày 2/8/1990. Oman cũng cho phép Hoa Kỳ
sử dụng sân bay như là điểm xuất phát của lực lượng không quân xâm lăng
Afghanistan năm 2001. Ngày 5/2/2005, trong một phiên xử các nghi can Hồi giáo
về âm mưu đảo chánh 31 ngưòi bị kết án tù giam. Ngày 19/1/2006, Oman ký kết
hiệp ước tự do mậu dịch với Hoa Kỳ. Trong cuộc bầu cử Hạ viện ngày 27/10/2007,
84 đại biểu kể cả 21 đại biểu nử được bầu chọn từ 631 ứng cử viên.
B. Oman ngày nay.
Hiến pháp và
Chính quyền: Oman là một quốc gia theo chế độ Quân chủ Hồi giáo. Nhà vua cai
trị bằng Sắc luật, ông ta chỉ định các Bộ trưởng trong Nội các. Luật cơ bản xem
như Hiến pháp công bố ngày 6/11/1996. Theo đó, Quốc hội có 2 viện: Hạ viện gồm
84 đại biểu được bầu từ các khu vực bầu cử, với nhiệm kỳ 4 năm, nhưng không có
quyền Lập pháp. Và Thượng viện có 59 Nghị sỉ do nhà vua bổ nhiệm chỉ làm nhiệm
vụ Tư vấn cho nhà Vua. Bằng một sắc luật tháng 12/2002, nhà Vua mở rộng quyền
bầu cử đến tất cả công dân từ 21 tuổi trở lên. Tại cuộc bầu cử đại biểu Quốc
hội ngày 27/10/2007, có 21 đại biểu nử và 63 đại biểu nam.
Cư dân và
lãnh thổ: Con người: Dân số: 2.967.000, dưới 15 tuổi 31,6%, trên 65 tuổi: 3%.
Mật độ dân cư: 9,6 người/km2. Thành phố: 72,8%. Sắc tộc: Arab, Baluchi, Nam Á,
African. Ngôn ngữ: Arabic (chính). Tôn giáo: Hồi giáo 75% hầu hết là Ibadhi.
Đất đai: Tổng diện tích: 309.500 km2. Diện tích đất: 309.500 km2. Địa điểm:
Trên bờ phía đông nam bán đảo Arabia. Quốc gia láng giềng: United Arab
Emirates, Saudi Arabia và Yemen phía tây. Địa thế: Oman có một vùng đồng bằng
chạy dọc theo bờ biển rộng 16 km, một dảy núi không cây cối cao tới 9.900 ft,
và một bình nguyên rộng cằn cỗi hầu như không có nước, cao trung bình khoảng
1.000 ft. Nơi có thể sử dụng gieo trồng nông sản đựơc là đầu mút bán đảo
Musandam tiếp cận với vịnh Persia. Thủ đô: Thành phố Muscat có 634.000 cư dân.
Chính trị và
kinh tế: Loại chính quyền: Quân chủ Hồi giáo. Nguyên thủ quốc gia và cầm đầu
chính phủ: Thủ lĩnh Hồi giáo Qabus bin Said Al Said, sinh 18/11/1940, nhậm chức
23/7/1970. Cũng là Thủ tướng từ ngày 2/1/1972. Chính quyền địa phương: 6 vùng
và 2 khu vực tự trị. Ngân sách quốc phòng: 4,0 tỷ USD. Quân đội chính quy:
42.600. Kinh tế: Công nghiệp: khai thác dầu lửa, khí đốt, xây dựng, xi măng,
luyện kim đồng. Nông sản: Rau quả, trái chà là, cam, chuối và cỏ linh lăng dùng
cho chăn nuôi. Tài nguyên: dầu lửa, khí đốt, đồng, nguyên tố kim loại mạ điện,
đá hoa cương, đá vôi, thạch cao. Dự trữ nhiên liệu: 5,5 tỷ thùng. Đất nông
nghiệp: dưới 1%. Chăn nuôi: trâu bò 310,000, gà 4,2 triệu, dê 1,6 triệu, heo
không có số liệu, cừu 360.000. Đánh cá: 154.078 tấn. Cung cấp điện: 15,1
tỷ Kwh. Phân bố lao động và đóng góp vào
Tổng sản lượng quốc gia: không có số liệu.
Tài chính và
an sinh: Đơn vị tiền tệ: Đồng Rial (tháng 9/2010: 0,39 =1USD). Tổng sản lượng
nội địa: 72,9 tỷ. Bình quân đầu người: 25.000. Tăng trưởng: 2 %. Nhập khẩu: 18,5
tỷ. Bạn hàng: United Arab Emirates 24,2%, Nhật Bản 16,4%, Hoa Kỳ 8,1%, Đức
5,4%, Ấn Độ 43%. Xuất khẩu: 27,7 tỷ. Bạn hàng: Trung Quốc 23,7%, Nam Triều tiên
18%, Nhật Bản 10,9%, Thái Lan: 10,7%, Nam Phi 7,7%, United Arab Emirates 6,3%.
Du lịch: không có số liệu. Ngân sách quốc gia: 18,4 tỷ. Dự trữ ngoại tệ: 7,7
tỷ. Dự trữ vàng: không có số liệu. Nợ nước ngoài: 4,8 tỷ. Giá cả tiêu thụ: tăng
3,9%. Vận chuyển: Đường xe lửa: không có số liệu. Bằng xe hơi: 324.000 lượt xe,
xe hơi cá nhân 109.100 chiếc. Bằng máy bay: bay 7,4 tỷ km, sân bay 7. Hải cảng:
2- Mina Qabus, và Salalah. Truyền thông: máy truyền hình: 575/1000 cư dân.
Radio: 607/1000. Điện thoại: 10,6/100. Internet: 43,5/100 người sử dụng. Sức
khoẻ y tế: Tuổi thọ: nam 72,2, nữ 75,9. Sinh xuất: 23,9/1000 cư dân. Tử xuất: 3,5/1000.
Tăng dân số tự nhiên: 2,0%. Chết trước tuổi trưởng thành: 16/ 1000 trẻ sơ sinh.
Nhiểm bệnh AIDS: 0,1%. Giáo dục: tuổi cưởng bức đi học: 6-15 tuổi, biết đọc
biết viết 86,7, trung học 67%, đại hoc 5%.
Tham gia tổ
chức quốc tế: Liên Hiệp Quốc (UN) và các tổ chức phụ thuộc của nó như Lương
nông Thế giới (FAO), Ngân hàng Thế giới ( IBRD), Lao động Thế giới (ILO), Quỹ
tiền tệ Thế giới (IMF), Hàng hải Thế giới (IMO), và Y tế Thế giới (WHO). Liên
đoàn Ả Rập (AL).
A. Tiến trình phát triển.
Lãnh thổ
Yemen từng là một phần của vương quốc Sheba hoặc Saba Cổ đại, là trung tâm
thương mại phồn vinh nối kết giữa Châu Phi và Ấn Độ. Sách thánh kinh nói vàng
bạc, châu báu, đá quý, và sự hấp dẫn của Nữ hoàng Saba (Sheba) như là những món
quà bẩm sinh trao cho nhà vua Solomon. Yemen trở thành một quốc gia độc lập năm
1918, sau nhiều năm bị đế quốc Ottoman-Thổ Nhĩ Kỳ cai trị, nhưng tụt hậu khá xa
về kinh tế và chính trị. Năm 1948, nhà Imam Ahmed đến với quyền lực. Tháng
9/1962, một nhóm sỹ quan do tướng Abdullah al-Salal cầm đầu làm đảo chánh tuyên
bố Yemen là một nước Cọng hoà Ả Rập (The Yemen Arab Republic). Người thừa kế
Ahmed là Imam Mohammad al-Bads chạy lên núi vận động các bộ tộc cùng với sự hổ
trợ của vương quốc à Rập Saudi, chiến đấu chống lại chính quyền Cọng hòa.
Ngày
5/11/1967, một cuộc đảo chánh khác thay đổi ngôi vị cầm quyền. Tháng 4/1970,
hiệp ước chấm dứt xung đột giữa Yemen và Arab Saudi. Cuộc chiến do Mohammad
al-Bads kéo dài đến cuối năm 1970, làm chết hơn 150.000 người. Ngày 13/6/1974,
nhóm sỹ quan do đại tá Ibrahim al Hamidi cầm đầu dấy loạn chiếm chính quyền.
Ông ta bị giết năm 1977. Trong thời gian này tại phía nam Yemen, nơi trước đây
là thuộc địa Aden của Anh, những người đấu tranh đã thành công trong việc đòi
thành lập một quốc gia độc lập tách khỏi sự bảo hộ từ Anh Quốc. Ba năm sau nó
trở thành quốc gia duy nhất trong khối Hồi giáo Ả Rập theo hệ thống Marxist với
tên gọi Cọng hoà Dân chủ Nhân dân Yemen. Ngày 29/3/1979, Oman ký Hiệp ước thân
thiện với Liên Xô theo đó nó cho phép quân đội Liên Xô đóng căn cứ quân sự tại Yemen.
Sau khi Nam
Yemen tuyên bố độc lập, hơn 380.000 người trốn khỏi phía Nam chạy về phía Bắc.
Thế là chiến tranh giữa hai quốc gia Nam Yemen và Bắc Yemen kéo dài tới hai
thập kỷ. Một thoả ước do Liên đoàn Ả Rập bảo trợ được ký ngày 29/3/1979, Bắc và
Nam Yemen tiến hành các cuộc đàm phán để tiến tới thống nhất Yemen. Năm 1988,
một hiệp ước khác quy định sự hợp tác thêm nữa trên các vấn đề kinh tế và chính
trị. Ngày 21/5/1990, hai quốc gia thống nhất với tên gọi chính thức là Cọng hoà
Yemen, nhưng các cuộc nổi dậy của phe cánh có căn cứ phía Nam vẫn tiếp tục dẫn
đến cuộc nội chiến năm 1994. Ngày 21/5/1994, những người đấu tranh tuyên bố
thành lập quốc gia ly khai phía Nam Yemen. Nhưng quân đội phía Bắc đã chiếm
thành phố Aden, nguyên là thủ đô của quốc gia phía Nam.
Cuộc bầu cử
Quốc hội ngày 27/4/1997, và Hiến pháp mới được thông qua ngày 28/9/1997. Tranh
chấp giữa Yemen và Eritrea trên quần đảo Hanish đưa tới các cuộc đánh nhau. Và,
được giải quyết bởi trọng tài quốc tế năm 1998. Yemen, quê hương của Osama bin
Laden nhận diện như là nơi thường xẩy ra các vụ xung đột giữa Hoa Kỳ và những
người Hồi giáo cực đoan. Ngày 12/10/2000, trong khi dừng lại để đổ thêm nhiên
liệu tại Aden, tàu khu trục Mỹ U.S.S Cole bị cài bom làm 17 quân nhân Mỹ chết
và khoảng 40 bị thương. Chính phủ Hoa Kỳ cáo buộc những tên khủng bố trong vụ
đặt bom này đã hợp tác với Osama bin Laden. Từ dấu vết đó năm 2002, Hoa Kỳ đã
gởi quân đội đến săn tìm và đã bắt được một số thành viên của tổ chức al Qaeda,
trong đó 6 ngươì bị kết án.
Ngày/11/2002,
tên lửa của CIA không rõ xuất xứ bắn hạ một chiếc máy bay giết chết 6 người
đựơc cho là thành viên của al-Qaeda trong đó có một người Mỹ. Cuộc bầu cử 301
đại biểu Quốc hội ngày 27/4/2003, đảng Nghị viện Nhân dân (MSA) chiếm 238 ghế,
kế là đảng Cải cách Quốc hội Yemen (Islah) 46 ghế, các đảng nhỏ chiếm số ghế
còn lại, trong đó ứng viên độc lập có 4 ghế. Ngày 10/5/2003, tên dân quân Hồi
giáo giết ba giáo sỉ Hoa Kỳ tại bệnh viện Baptist bị bắt, và bị tuyên án tử
hình trong tháng 12/2003. Tháng 6/ 2004, cuộc chiến bắt đầu giữa quân đội Yemen
và quân bạo loạn Hồi giáo do tu sỉ chống Mỹ Hussein al-Houthi cầm đầu giết chết
trên 200 người. Ngày 10/9, chính quyền thông báo rằng, quân đội Yemen đã dập
tắt cuộc bạo loạn và giết chết tu sỉ Hussein al-Houthi.
Ngày
20/9/2006, đương kim Tổng thống Ali Abdullah Saleh được Quốc hội tái bầu nhiệm
kỳ 4, với 77,2% số phiếu. Xin lưu ý rằng năm 2005, Saleh tuyên bố ông sẽ không
ra ứng cử Tổng thống năm 2006, nhưng vì yêu cầu của đại đa số nhân dân nên ông
phải thay đổi ý định. Đầu năm 2007-2010, bạo loạn Hồi giáo hệ phái Shiite phía
Tây Bắc, những người ly khai phía Nam, và lực lượng al-Qaeda phía Đông cùng với
các tay cướp biển là mối thách thức lớn đối với chính quyền Yêmen. Tháng
4/2010, chính phủ Mỹ treo giải thưởng cho những ai giết được Anwar al-Awlaki,
một công dân Mỹ, tu sỉ Hồi giáo cực đoan đã cấu kết với nhiều âm mưu khủng bố
chống lại Hoa Kỳ, đang ẩn trốn tại Yêmen.
B. Yemen ngày nay.
Hiến pháp và
Chính quyền: Hiến pháp năm 1991, được tu
chỉnh năm 1994, và sau đó là nội chiến. Ngày 28/9/1997, Quốc hội thông qua Hiến
pháp mới trên đó Luật Hồi giáo là nền tảng. Nó xóa bỏ Hội đồng Tổng thống gồm 5
thành viên, và thay thế bằng một vị Tổng thống do Quốc hội bầu với nhiệm kỳ 5
năm. Lảnh tụ đảng chiếm đa số ghế tại Quốc hội giữ chức Thủ tướng. Trong cuộc
“trưng cầu dân ý” ngày 20/2/2001, cử tri chấp nhận đề nghị tu chỉnh Hiến pháp
kéo dài nhiệm kỳ Tổng thống từ 5 năm lên 7 năm, và nhiệm kỳ đại biểu Quốc hội
từ 4 năm lên 6 năm, và thành lập Thựơng viện với 111 Nghị sỉ do Tổng thống bổ
nhiệm.
Cư dân và
lãnh thổ: Con người: Dân số: 23.495.000, dưới 15 tuổi 44,5,%, trên 65 tuổi
2,6%. Mật độ dân cư: 44,5 người/km2. Thành phố: 28,9%. Sắc tộc: Ả Rập chính
thống, Ả Rập pha tạp, Nam Á, European. Ngôn ngữ: Arabic (chính). Tôn giáo: Hồi
giáo, trong đó Sunni 60%, và Shi'a 40%. Đất đai: Tổng diện tích: 527.970 km2.
Diện tích đất: 527.970 km2`Địa điểm: vùng Trung Đông trên bờ phía nam của bán
đảo Arabia. Quốc gia láng giềng: Saudi Arabia phía bắc. Oman phía đông. Địa
thế: Một dải cát chạy dài theo bờ tới một vùng đất màu mỡ với nhiều núi bên
trong nội địa. Thủ đô: Sana’a. Thành phố đông dân: Sana'a 2.229.000, Al
Hudaydah 780.000, Ta’ izz 751.000.
Chính trị và
kinh tế: Loại chính quyền: Cộng hoà. Nguyên thủ quốc gia: Tổng thống Ali
Abdullah Saleh, sinh 1942, nhậm chức 17/7/1990 (tái bầu ngày 20/9/2006). Thủ
tướng chính phủ: Ali Mohammed Mujawar, sinh 1953, nhậm chức 7/4/2007. Chính
quyền địa phương: 19 chính quyền tự trị và vùng thủ đô. Ngân sách quốc phòng: 1,5
tỷ USD. Quân đội chính quy: 66.7000. Kinh tế: Công nghiệp: khai thác và chế
biến dầu khí, hàng dệt, hàng da cao cấp, và chế biến thực phẩm. Nông sản: Hạt
ngũ cốc, rau quả, trái cây, cà phê, sợi bông. Tài nguyên: dầu lửa, cá, muối, đá
cẩm thạch, than đá, vàng ,chì, nickel, đồng. Dự trữ nhiên liệu: 3 tỷ thùng. Đất
nông nghiệp: 3%. Chăn nuôi: trâu bò 1,5 triệu, gà 5,1 triệu, dê 8,2 triệu, cừu
4,8 triệu. Đánh cá: 250.000 tấn. Cung cấp điện: 5,7 tỷ Kwh. Phân bố lao động và
đóng góp vào Tổng sản lượng quốc gia: nông nghiệp 50%, đóng góp 15%; công
nghiệp 20%, đóng góp 45%; dịch vụ 30%, đóng góp 40%.
Tài chính và
an sinh: Đơn vị tiền tệ: Đồng Rial
(tháng 9/2010: 237=1USD). Tổng sản lượng nội địa: 58,0 tỷ. Bình quân đầu
người: 2.500. Tăng trưởng: 3,8%. Nhập khẩu: 7,5 tỷ. Bạn hàng: United Arab
Emirates 15,8%, Trung Quốc 12,3%, Saudi Arabia 7,5%, Thụy Sỉ 6,4%, Kuwait 5,6%,
Malaysia 4%. Xuất khẩu: 5,8 tỷ. Bạn hàng: Trung Quốc 29,9%, Ấn Độ 16,6%, Thái
Lan 15,9%, Nam Triều Tiên 6,4%, Hoa kỳ 6,4%, Thụy Sỉ 5,2%. Du lịch: 262 triệu.
Ngân sách quốc gia: 9,4 tỷ. Dự trữ ngoại tệ: 4,4 tỷ. Dự trữ vàng: 50.000 ozt.
Nợ nước ngoài: 5,5 tỷ. Giá cả tiêu thụ: tăng 3,7%. Vận chuyển: Đường xe lửa:
không có số liệu. Bằng xe hơi: 346.000 lượt xe, xe hơi cá nhân 587.900 chiếc.
Bằng máy bay: bay 3,6tỷ km, sân bay 17. Hải cảng: 3- Al Hudaydah, Al Mukala,
Aden. Truyền thông: Máy truyền hình: 286/1000 cư dân. Radio: 64/1000. Điện
thoại: 5,1/100. Internet: 1,8/100 người sử dụng. Sức khoẻ y tế: Tuổi thọ: nam
61,4, nữ 65,5. Sinh xuất: 34,4/1000 cư dân. Tử xuất 7,2/1000. Tăng dân số tự
nhiên: 2,7%. Chết trước tuổi trưởng thành: 56,8/ 1000 trẻ sơ sinh. Nhiểm bệnh
AIDS: 0,1%. Giáo dục: tuổi cưỡng bức đi học 6-15, biết đọc biết viết 60,9%,
trung học 45%, đại học 10%.
Tham gia tổ
chức quốc tế: Liên Hiệp Quốc (UN) và các tổ chức phụ thuộc của nó như Lương
nông Thế giới (FAO), Ngân hàng Thế giới ( IBRD), Lao động Thế giới (ILO), Quỹ
tiền tệ Thế giới (IMF), Hàng hải Thế giới (IMO), và Y tế Thế giới (WHO). Liên
đoàn Ả Rập (AL).
7 quốc gia
khu vực Nam Á chiếm 4.478.839 km2 diện tích đất, và 1.565.188.000 cư dân. Quốc
gia lớn nhất là India chiếm 3.287.263 km2 và quốc gia nhỏ nhất Maldives chỉ có 298
km2. Ấn Độ có trên 1.170 triệu cư dân, 2 nước có dân số trên 150 triệu là
Pakistan, và Bangladesh. Nhưng Maldives chỉ dưới 400 ngàn cư dân. Ấn Độ và
Nepal có trên 80% cư dân là tín đồ đạo Hindus. Pakistan và Bangladesh trên 80%
dân số theo đạo Hồi. Tại Bhutan và Sri Lanka trên 70% là tín đồ Phật giáo. Về
thể chế chính trị khu vực có 2 quốc gia theo chế độ Quân chủ, và 5 quốc gia
theo chế độ Cộng hoà với các tên gọi khác nhau như Cộng hoà Hồi giáo Pakistan,
Cộng hoà Nhân dân Bangladesh, Cộng hoà Dân chủ Xã hội Sri Lanka, và Cộng hoà
India, Cọng hoà Maldives. Bảy quốc gia trong khu vực gồm: Pakistan, India,
Nepal, Bhutan, Bangladesh, Sri Lanka, và Maldives.
A. Tiến trình phát triển.
Pakistan chia
xẽ một phần lịch sử 5000 năm của tiểu lục địa Ấn Độ - Pakistan. Thời Cổ đại hai
lưu vực sông Indus là Harappa, và Mohenjo-Daro là vùng hưng thịnh nhất. Khoảng
năm 4000 đến 2500 Trước công nguyên (TCN) tại nơi này đã có các thành phố lớn,
và hệ thống tưới tiêu đồng ruộng. Người xâm lăng Aryan từ phía Tây Bắc đến vùng
này khoảng 1500 TCN, khởi đầu một nền văn minh gọi là văn minh Hindu, từng tồn
tại ở Pakistan cũng như Ấn Độ tới 2000 năm. Từ thế kỷ thứ 6 TCN, ban đầu là
người Persia, sau đó là Alexander đại đế, rồi với Sassamian. Các nhà cai trị
này đã thống trị hoặc chi phối lên Pakistan. Năm 712 Sau công nguyên (SCN),
cuộc xâm lăng lần thứ nhất của người Ả Rập, mang đạo Hồi vào tiểu lục địa. Từ
năm 1526 đến 1857, dưới sự cai trị của đế quốc Mogul, đạo Hồi chi phối hầu như
khắp Ấn Độ.
Năm 1858, Anh
Quốc xâm chiếm toàn bộ tiểu lục Ấn Độ, đạo Hindus một lần nữa sống dậy. Sau thế
chiến lần thứ I, người Ấn Độ theo đạo Hồi trong các thuộc địa Anh làm bạo động
đòi quyền lợi cho những người thiểu số về quyền bầu cử. Muhammad Ali Jinnah
(1876-1948), nhà kiến trúc chủ chốt của Pakistan lãnh đạo Liên đoàn Hồi giáo từ
năm 1916 hoạt động đỏi quyền tự trị Ấn Độ. Và từ năm 1946, ông ta ủng hộ giải
pháp thành lập một quốc gia Hồi giáo tách khỏi Ấn Độ. Ngày 14/8/1947, khi Anh
quốc rút khỏi tiểu lục nầy, thì các khu vực có đa số người theo Hồi giáo ở Ấn
Độ, thành lập chính quyền Pakistan tự tri trong khối thịnh vượng Anh. Pakistan
được chia thành hai khu vực, tây Pakistan và đông Pakistan. Hai khu vực này
cách nhau hơn 1600 km, nằm cạnh Ấn Độ. Năm 1956, Pakistan trở thành một nước
Cọng hoà.
Tháng
10/1958, tướng Mohammad Ayub Khan đến với quyền lực trong một cuộc đảo chánh.
Hai năm sau năm 1960, ông ta được bầu làm Tổng thống, và tái bầu năm 1965.
Mohammad từ chức ngày 25/3/1969, sau nhiều tháng bạo loạn đập phá và bất an ở
phía đông Pakistan, nơi dân chúng đòi được quyền tự trị. Chính quyền được trao
trở lại cho quân đội, tướng Agha Mohammad Yahya Khan nắm chính quyền và công bố
thiết quân luật. Liên đoàn Awami, một tổ chức từng tìm kiếm chính quyền tự trị
cho vùng phía đông Pakistan, giành thắng lợi chiếm đa số ghế tại Nghị viện
trong cuộc bầu cử tháng 12/1970. Tháng 3/1971, tướng Yahaya tuyên bố đình hoãn
triệu tập phiên họp của Nghị viện. Thế là bạo loạn, đập phá và biểu tình nổi
lên ở khu vực phía Đông.
Ngày
25/3/1971, từ phía Tây, chính phủ đưa quân đến dẹp loạn. Nhân dân phía Đông,
với sự giúp đỡ của Ấn Độ tuyên bố quốc gia Bangladesh độc lập, tách khỏi
Pakistan. Các trận đánh diễn ra và mở rộng trong nhiều tháng, nhiều ngàn người
bị giết và hơn 10 triệu người phía Đông chạy vào Ấn Độ. Ngày 3/12/1971, từ nội
chiến Pakistan, cuộc chiến phát triển thành chiến tranh giữa hai quốc gia Ấn Độ
và Pakistan cả ở mặt trận phía Đông lẫn phía Tây. Ngày 16/12, ở mặt trận phía
Đông, quân Pakstan đầu hàng. Ngày 17/12 Pakistan đồng ý một cuộc ngưng chiến
tại mặt trận phía Tây. Ngày 3/7/1972, Pakistan và India ký một thoả hiệp rút
quân khỏi vùng biên giới của họ, và tìm kiếm một giải pháp hoà bình cho tất cả
các vấn đề của hai nước.
Zulfikar Ali
Bhutto lãnh đạo đảng Nhân dân Pakistan chiến thắng trong cuộc bầu cử tháng
12/1970, và trở thành Tổng thống Pakistan. Bhutto bị truất phế trong một cuộc
đảo chánh quân sự tháng 7/1973. Bị buộc tội đồng loã trong vụ giết chết một
chính trị gia năm 1974 với bản án tử hình, Bhutto bị hành quyết ngày 4/4/1974.
Tháng 12/1979, hơn 3 triệu người Afghanistan tràn vào Pakistan, sau khi Liên Xô
xâm lăng Afghanistan, trên 1,2 triệu người vẫn còn ở lại đến năm 1999. Tổng
thống Mohammad Zia al-Haq chết trong tháng 8/1988, khi máy bay của ông ta bị nổ
tung. Sau cuộc bầu cử tháng 11/1988, bà Benazir Bhutto, con gái của Zulfikar
Ali Bhutto được bổ nhiệm làm Thủ tướng, trở thành nhà lãnh đạo phụ nữ đầu tiên
trong các quốc gia Hồi giáo.
Tháng 8/1990,
bà bị tố cáo tham nhũng, và bị bãi chức Thủ tướng bởi Tổng thống Pakistan. Đảng
của bà Bhutto thất bại trong cuộc bầu cử tháng 10/1990, và Nawaz Sharif trở
thành Thủ tướng. Trong cuộc bầu cử tháng 10/1993, bà Bhutto một lần nữa chiến
thắng nắm quyền lực. Phe đối lập đập phá, reo hò, làm bạo loạn. Xung đột sắc
tộc nổ ra trong suốt năm 1995 và 1996. Chính quyền Bhutto lại bị tố cáo tham
nhũng và quản lý tồi. Ngày 5/11/1996, bà Bhutto bị bải chức Thủ tướng, Tổng
thống Faraog Leghari chỉ định một người tạm thời làm Thủ tướng. Cuộc bầu cử
Quốc hội ngày 3/2/1997, đảng của Sharif chiếm đa số ghế nhậm chức Thủ tướng.
Đáp trả các cuộc thử nghiệm vũ khí hạt nhân của Ấn Độ, ngày 28 và 30/5/1998,
Pakistan cũng cho tiến hành các cuộc thử nghiệm tương tự. Hoa Kỳ áp đặt cấm vận
kinh tế lên cả hai nước.
Trong một
phiên xử vắng mặt, nguyên Thủ tướng bị lưu đày, Bhutto bị buộc tội nhận hối lộ,
bà kháng án và phiên xử mới vào ngày 6/4/2001. Giữa năm 1999, những người Hồi
giáo có quân đội Pakistan hổ trợ, chiếm vài nơi do Ấn Độ quản lý tại vùng tranh
chấp Kashmir, địa danh từng xảy ra các cuộc đánh nhau ác liệt trong hai thập kỷ
qua. Ngày 4/7/1999, sau khi gặp Tổng thống Mỹ Bill Clinton, Thủ tướng Sharif
đồng ý rút quân đội Pakistan khỏi vùng mới chiếm. Mâu thuẫn giữa Shairf và quân
đội đạt tới đỉnh cao, và ngày 12/10, tướng Pervez Musharraf lật đổ Sharif bằng
một cuộc đảo chánh không đổ máu. Ngày 15/10, Musharraf ra lệnh thiết quân luật,
tuyên bố ngưng thi hành Hiến pháp. Bởi vì, quân đội chiếm quyền do đảo chánh,
nên tư cách thành viên của Pakistan trong Khối Thịnh vượng Anh tạm thời đình
chỉ vào ngày 18/10.
Ngày
6/4/2000, Sharif bị kết án tù chung thân, và ngày 10/12/2000, ông ta buộc phải
rời khỏi Pakistan, đến sống lưu vong tại Saudi Arabia. Ngày 20/6/2001,
Musharraf kiêm luôn chức Tổng thống. Để củng cố quyền lực, sau vụ khủng bố tấn
công vào Hoa Kỳ ngày 11/9/2001, ngày 19/11, Tổng thống Musharraf cam kết sẽ hợp
tác với Hoa Kỳ, trong các hoạt động chống lại Taliban và al Qaeda tại nước láng
giềng Afghanistan. Đổi lại Hoa Kỳ sẽ trợ giúp tài chính và giảm nợ cho
Pakistan. Để giảm bớt sự căng thẳng đang ngày càng gia tăng với Ấn Độ, cuối
tháng 12/2001, Musharraf ra lệnh bắt các thành viên của nhóm dân quân Hồi giáo
quá khích, những người mà Ấn Độ cáo buộc đã tấn công vào toà nhà Quốc hội Ấn
tại New Delhi ngày 13/12.
Bạo loạn của
quân du kích quân tại Kashmir, và vụ thử tên lửa mang đầu đạn hạt nhân từ ngày
25-28/5/2002 là mối đe doạ cao có thể dẫn đến chiến tranh với Ấn Độ, nhưng
khủng hoảng dịu dần vào tháng 6 qua sự trung gian hoà giải của Hoa Kỳ. Vụ dân
quân quá khích Hồi giáo bắt cóc thông tín viên báo Wall Street Journal là Daniel
Pearl ngày 23/1/2002 và giết anh ta, một tòa án Pakistan trong phiên xử ngày
15/7 đã kết án tù có thời hạn 4 du kích quân trên. Cuộc “trưng cầu dân ý” ngày
30/4/2002, gia hạn quyền cai trị của Musharraf thêm một nhiệm kỳ 5 năm nữa.
Nhiều quan sát viên gọi cuộc trưng cầu dân ý ấy là một sự "lừa đảo".
Ngày 21/8/2002, Musharraf tu chỉnh Hiến pháp tăng thêm vai trò của quân đội
trong việc điều hành quốc gia.
Từ năm 2002,
có nhiều bằng chứng cho thấy hoạt động của al Qaeda tăng lên bên trong nội địa
Pakistan. Vụ xe bom phát nổ ở Karachi giết chết 11 kỹ sư người Pháp trong tháng
5, và giết chết 12 người Pakistan tại toà đại sứ Mỹ trong tháng 6, là hai
trường hợp điển hình. Ramzi bin al-Shibh, người gần gủi với tên đầu sỏ Mohamad
Atta trong vụ khủng bố 11/9, bị bắt ở Karachi ngày 11/9/2002. Ngày 1/3/2003,
người chủ chốt trong vụ tấn công 11/9 là Khalid Sheikh Mohammed cũng bị bắt ở
Rawalpindi. Ngày 14 và 25/12/2003, những tên Hồi giáo quá khích thực hiện hai
vụ đặt bom trong nổ lực ám sát Tổng thống Musharraf tại Rawalpindi nhưng không
thành công. Cuối tháng 9/2004, nhân vật cầm đầu của al-Qaeda trong các nổ lực
trên là Amjad Hussain Farooqi bị giết bởi lực lượng an ninh.
Bị tố cáo đã
bán năng lượng nguyên tử cho Iran, Lybia, và Bắc Triều Tiên, ngày 4/2/2004 nhà
khoa học gia hàng đầu Pakistan là Abdul Qadeer Khan đã phát biểu trên đài
truyền hình nhìn nhận hành vi trên và xin lổi công chúng. Và hôm sau, ngày 5/2,
Musharraf chấp nhận lời xin lổi, tha thứ cho Khan. Ngày 25/7 Liên quân Hoa Kỳ
và Pakistan đột kích vào sào huyệt tổ chức al-Qaeda ở Gujrat tìm thấy một kế
hoạch tấn công các tổ chức tài chánh và ngân hàng của Hoa Kỳ. Ngày 27/8/2004,
Shaukat Aziz người may mắn sống sót trong vụ tấn công bằng ôm bom tự sát ngày 30/7 được bầu vào chức Thủ tướng. Ngày
1/10 một vụ đánh bom tại thánh đường Hồi giáo hệ phái Shiite ở Sialkot giết
chết hơn 20 tín đồ đang hành lể. Trước đó, trong một vụ tấn công khác nhắm vào
hệ phái Shiite tại Karachi, al-Qaeda cũng giết chết hơn 100 người.
Trong tháng
10/2005, trận động đất tại Kashmir, khu vực do Pakistan quản lý giết chết
73.000 người, và làm cho trên 3 triệu người mất nhà cửa. Năm 2006, nhiều cuộc
nổi dậy của bộ tộc du cư vùng Balochistan đòi được quyền tự trị rộng rãi hơn.
Đầu năm 2007, các vụ nổ bom và bắn pháo lại tái diển, chỉ riêng vụ nổ bom trên
một chuyến xe lửa giữa đoạn đường từ Lahor và New Delhi đã giết chết 68 hành
khách. Tháng 3/2007, Musharraf loan báo, ông ta sẽ ra ứng cử Tổng thống trong
nhiệm kỳ 5 năm tới. Viện dẫn lý do vi Hiến, rằng ứng cử viên Tổng thống không
thể là Tư lệnh quân đội, Tòa án tối cao bác bỏ tư cách ứng viên của ông ta.
Tháng 9/2007, Musharraf cách chức Chánh án Tòa án tối cao là Iftikhar Mohammad
Chaudry làm dấy lên một làn sóng bạo loạn ở Karachi.
Trước sức ép
của Quốc hội Liên bang và Nghị viện cấp Tỉnh, Musharraf phải phục hồi chức vụ
cho Chaudry. Nhưng tòa án Tối cao vẫn chưa chấp nhận sự bổ nhiệm nầy cho đến
khi nào vấn đề pháp lý được giải quyết. Sau nhiều lần thương thảo cuối cùng
cũng đi đến một sự tương thuận, bởi tỏa án có nguy cơ bị giải tán. Trong khi đó
thì cuộc chiến trở nên khốc liệt ở Waziristan căn cứ của các nhóm dân quân Hồi
giáo quá khích. Sau hơn 1 tuần vây hảm, lực lượng an ninh tấn công vào Thánh
đường Hồi giáo (Red Mosque) ở Islamabad nơi được xem như là có liên kết chặt
chẽ nhất với các nhóm dân quân quá khích Hồi giáo làm chết hơn 100 người và bị
thương 250 người khác. Chỉ có 685/1.170 đại biểu Quốc hội Liên bang và Nghị
viên cấp Tỉnh tham gia bầu Tổng thống ngày 6/10/2007, và Musharraf được tái bầu
với 671 phiếu.
Tòa án Tối
cao tuyên bố không xác nhận sự đắc cử nầy cho đến khi Musharraf từ bỏ chức vụ
Tổng tư lệnh quân đội. Tháng 11/2007, Musharraf ra lệnh thiết quân luật ngưng
thi hành Hiến pháp, nhiều vị quan tòa, lảnh tụ chính trị nổi tiếng bị bắt giam.
Tháng 12/2007, lảnh tụ đối lập Benasir Bhutto bị ám sát trước ngày bầu cử Quốc
hội dự kiến sẽ tổ chức vào tháng 1/2008, đẩy nền chính trị Pakistan lên gần với
sự rối rắm, khiến ngày bầu cử phải dời lại đến tháng 2. Cuộc bầu cử Quốc hội
ngày 18/2/2008, đảng Nhân dân (PPP) của bà Bhutto giành thắng lợi trước các
đảng hậu thuẩn cho Musharraf. Ngày 24/3/2008, lãnh tụ đảng Nhân dân (PPP) là
Yousaf Raza Gilani được bầu làm Thủ tướng chính phủ Liên hiệp. Đầu tháng 8, tân
Chính phủ bắt đầu thủ tục khởi tố đưa Tổng thống Musharrf ra xét xử trước Quốc
hội về tội lạm dụng quyền hành.
Biết rõ thế
yếu của mình, ngày 18/8 Musharraf tuyên bố từ nhiệm, để lại một khoảng trống
quyền lực trên chính trường cùng với sự giành giật, đấu đá lẫn nhau giữa các
đảng phái. Cuối cùng thì ngày 6/9/2008, Asif Ali Zardari chồng cựu Thủ tướng
Benazir Bhutto vừa bị ám sát được Quốc hội bầu làm Tổng thống thay thế Pervez
Musharraf. Ngày 16/2/2009, chính quyền Pakistan tuyên bố một cuộc ngưng bắn tại
bình nguyên chiến lược Swat do Taliban kiểm soát. Không bao lâu sau đó, tháng 5
quân chính phủ đánh chiếm hầu hết các nơi mà họ cho là thuộc phần đất của họ.
Cuộc chiến đã khiến gần 2 triệu dân thường phải bỏ nhà cửa chạy đi lánh nạn.
Ngày 5/8, Hoa Kỳ bắn hỏa tiển vào phía Nam Wazirítan, giết chết Baitullah
Mehsud người bị cáo buộc trợ giúp quân nổi dậy Afghanistan và âm mưu ám sát bà
Benazir Bhutto.
Trận lụt
trong tháng 7 và 8 đã làm đã làm ngập tới một phần năm lãnh thổ Pakistan, giết
chết trên 1.750 người, và trên 20 triệu người tiêu tan nhà cửa. Ngày 1/5/2011,
trùm khủng bố quốc tế Bin Laden đã bị đặc nhiệm Hoa Kỳ bắn chết tại một dinh
thự ngay trong một thị trần lớn ở Pakistan.
B. Pakistan ngày nay.
Hiến pháp và
Chính quyền: Hiến pháp năm 1973 chỉ rõ Tổng thống được bầu bởi Quốc hội với
nhiệm kỳ 5 năm. Quốc hội gồm Hạ viện và Thượng viện. Hạ viện có 342 đại biểu,
với nhiệm kỳ 5 năm, trong đó 272 ghế được bầu từ các khu vực bầu cử, 10 ghế cho
người thiểu số không phải Hồi giáo, và 60 ghế cho phụ nử, và Thượng viện có 100
Nghị sĩ phân bố cho 4 tỉnh (mỗi tỉnh 14 nghị sĩ), ba vùng tự trị, và khu vực
thủ đô Liên bang (mỗi vùng và khu vực thủ đô mỗi nơi 8 nghị sĩ). 12 ghế còn lại
4 ghế dành cho chuyên viên, 4 ghế cho phụ nữ, và 4 ghế thêm cho 4 tỉnh phụ
thuộc vào số lượng cử tri. Năm 1985, tu chỉnh Hiến pháp tăng quyền hạn của Tổng
thống bao gồm việc bổ nhiệm và cách chức các Bộ trưởng, Tổng Tư lệnh quân đội,
và quyền phủ quyết Đạo luật. Ngày 1/4/1997, Quốc hội thông qua Đạo luật hủy bỏ
việc tăng quyền trên của Tổng thống.
Cư dân và lãnh
thổ: Con người: Dân số: 184.404.000, dưới 15 tuổi 36%, trên 65 tuổi 4,2%. Mật
độ dân cư: 239,2 người/km2. Thành phố: 35,6%. Sắc tộc: Punjabi, Sindhi,
Pashtun, Balochi. Ngôn ngữ: Urdu, English (chính), Punjabi, Sindhi, Siraiki,
Pashtu, Balochi, Hindko, Brahui, Burushaski. Tôn giáo: Hồi giáo 97%, trong đó
Sunni 77%, Shi'a 20%. Đất đai: Tổng diện tích: 796.095 km2. Diện tích đất: 770.875
km2. Địa điểm: một phần Tây Nam Á. Quốc gia láng giềng: Iran phía tây.
Afghanistan, và China phía bắc. India phía đông. Địa thế: Sông Indus bắt đầu từ
núi Himalaya và Hindu Kush phía bắc có dòng chảy hơn 1.609 km xuyên qua đồng
bằng phì nhiêu rồi chảy vào biển Arabia. Sa mạc Thar, và bình nguyên phía đông,
cạnh sườn lưu vực Indus. Thủ đô:
Islamabad. Thành phố đông dân: Karachi 12.817.000, Lahore 6.959.000, Faisalabad
2.776.000, Islamabad 832.000 cư dân.
Chính trị và
kinh tế: Loại chính quyền: Cộng hòa Hồi giáo. Nguyên thủ quốc gia: Tổng thống
Asif Ali Zardari, sinh 26/7/1955, nhậm chức 9/9/2008. Thủ tướng chính phủ: Syed
Yousaf Raza Gilani, sinh 9/6/1952, nhậm chức 25/3/2008. Chính quyền địa phương:
4 tỉnh và một vùng thủ đô cùng với nhiều vùng du mục quản lý theo kiểu Liên
bang. Ngân sách quốc phòng: 4,1 tỷ USD. Quân đội chính quy: 617.000. Kinh tế:
Công nghiệp: vải, may mặc, chế biến thực phẩm,
thức uống, và sản phẩm giấy. Nông sản: Gạo, lúa mỳ, sợi bông, mía đường,
và trái cây. Tài nguyên: khí thiên nhiên, dầu lửa, than đá, quặng sắt, đồng,
muối, và đá vôi. Dự trữ nhiên liệu: 339 triệu thùng. Đất nông nghiệp: 24%: Chăn
nuôi: trâu bò 26,9 triệu, gà 182 triệu,
dê 53,8 triệu, cừu 26,5 triệu. Đánh cá: 611.623 tấn. Cung cấp điện: 90,4 tỷ
Kwh. Phân bố lao động và đóng góp vào Tổng sản lượng quốc gia: nông nghiệp 43,1%,
đóng góp 23%; công nghiệp 20,3%, đóng góp 24%; dịch vụ 36,6%, đóng góp 53%.
Tài chính và
an sinh: Đơn vị tiền tệ: Đồng Rupee
(tháng 9/2010: 85,6=1USD). Tổng sản lượng nội địa: 433,1 tỷ. Bình quân
đầu người: 2.500. Tăng trưởng: 4,2%. Nhập khẩu: 28,5 tỷ. Bạn hàng: Trung Quốc
13,7%, Saudi Arabia 10,4%, Unted Arab Emirates 9,7%, Hoa Kỳ 6,4%, Nhật Bản
5,7%. Xuất khẩu: 18,4 tỷ. Bạn hàng: Hoa kỳ 21,2%, United Arab Emirates 9,1%,
Afghanistan 7,7%, Trung Quốc 5,4%, Anh 5,1%. Du lịch: 316 triệu. Ngân sách quốc
gia: 31,5 tỷ. Dự trữ ngoại tệ: 7,2 tỷ. Dự trữ vàng: 2,1 triệu ozt. Nợ nước
ngoài: 34,0 tỷ. Giá cả tiêu thụ: tăng 13,6%. Vận chuyển: Đường xe lửa: 8.160
km. Bằng xe hơi: 1,5 triệu lượt xe, xe hơi cá nhân: 663.000 chiếc. Bằng máy
bay: bay 13,5 tỷ km, sân bay: 92. Hải cảng: 1- Kyrachi. Truyền thông: Máy
truyền hình: 105/1000 cư dân. Radio: 94/1000. Điện thoại: 2,2/100. Internet: 11,3/100
người sử dụng. Sức khoẻ y tế: Tuổi thọ: nam 63,8, nữ 67,5. Sinh xuất: 25,3/1000
cư dân. Tử xuất: 7,1/1000. Tăng dân số
tự nhiên: 1,8%. Chết trước tuổi trưởng thành: 65,3/ 1000 trẻ sơ sinh. Nhiểm
bệnh AIDS: 01%. Giáo dục: tuổi cưỡng bức đi học 5-9, biết đọc biết viết 53,7%,
trung học 37%, đại học 3%.
Tham gia tổ
chức quốc tế: Liên Hiệp Quốc (UN) và các tổ chức phụ thuộc nó như Lương nông
Thế giới (FAO), Ngân hàng Thế giới (IBRD), Lao động Thế giới (ILO), Quỹ tiền tệ
Thế giới (IMF), Hàng hải Thế giới (IMO), Y tế Thế giới (WHO), và Mậu dịch Thế
giới (WTrO). Khối thịnh vượng Anh (Commonwealth).
A. Tiến trình phát triển.
Ấn Độ (India)
là một trong những nền văn minh cổ nhất của thế giới. Cổ vật khai quật cho thấy
văn minh lưu vực sông Indus xuất hiện cách đây ít nhất 5000 năm. Tranh vẽ về
hang động núi non của Ajanta được trưng bày nhiều tại các đền thờ như Taj Mahal
ở Agra, và Kutab Minar ở Delhi là những vật tích của thời quá khứ. Người Aryan,
nói tiếng Sanskrit (Phạn), xâm lăng Ấn Độ từ phía Tây Bắc khoảng 1500 TCN tạo
ra đẳng cấp xã hội Ấn Độ như là một nền văn minh. Asoka cai trị hầu hết tiểu
lục Ấn Độ vào thế kỷ thứ III TCN. Ông ta ủng hộ Phật giáo, xem Phật giáo là tôn
giáo chính trong vương quốc. Nhưng đạo Hindus cũng được tồn tại, và cuối cùng
chiếm ưu thế từ thế kỷ thứ IV đến thứ VI (SCN) dưới thời vương quốc Gupta. Đây
là thời kỳ mà văn học, nghệ thuật, khoa học, đạt tới sự hưng thịnh như là một
thời kỳ vàng son của Ấn Độ.
Đến thế kỷ
thứ VIII, người Hồi giáo từ Ã Rập chiếm phần phía Tây Ấn Độ, và lập ra đạo Hồi.
Năm 1200, Hồi giáo Thổ Nhĩ Kỳ đánh chiếm Bắc Ấn. Hoàng đế Mogul cai trị Ấn Độ
từ 1526 đến 1857. Từ năm 1498-1503, người Bồ Đào Nha lập các trạm buôn bán với
Ấn Độ, sau đó là người Hoà Lan. Năm 1609, công ty Đông Ấn Anh gởi thuyền trưởng
William Hawkins đến thương lượng với Hoàng đế Mogul xin ban cấp đặc quyền mua
bán trầm hương và tơ lụa. Thông qua hoạt động của công ty Đông Ấn, Anh quốc
từng bước kiểm soát Ấn Độ. Quốc hội Anh điều hành chính sự Ấn Độ từ năm 1825
đến 1835 dưới thời cai trị của Lord Bentinck. Nhà vua Ấn Độ vẫn còn tại vị, như
kẻ bù nhìn không chút quyền hành. Sau vụ nổi loạn của quân lính tại Sepoy năm
1857-1858, chính quyền Anh nắm quyền cai trị trực tiếp Ấn Độ từ Công ty Đông
Ấn.
Sau chiến
tranh thế giới lần thứ I, những người theo chủ nghĩa quốc gia phát triển mạnh,
Hội nghị Quốc gia Ấn Độ và Liên đoàn Hồi giáo đòi sửa đổi Hiến pháp trao cho Ấn
Độ nhiều quyền tự trị hơn. Nhà lãnh đạo nổi tiếng ở Mohandas là K. Gandhi
thường gọi là Thánh Gandhi (1869-1948), lảnh đạo cuộc đấu tranh bất bạo động,
đòi chính quyền tự trị, xoá bỏ hệ thống đẳng cấp xã hội. Năm 1930, Gandhi đề
kêu gọi quần chúng tẩy chay hàng hoá Anh quốc, và phản đổi các sắc thuế không
phù hợp. Năm 1935, Anh quốc thông qua một Hiến pháp về Ấn Độ cho phép nước này
có một Quốc hội lưỡng viện Liên bang. Trong khi đó thì Muhammad Ali Jinnah,
người cầm đầu Liên đoàn Hồi giáo vận động thành lập quốc gia Hồi giáo Pakistan.
Chính quyền Anh phân chia thuộc địa Anh trên đất Ấn Độ thành hai chính quyền tự
trị Ấn Độ và Pakistan.
Ấn Độ trở
thành thành viên của Liên Hiệp Quốc năm 1945, và là thành viên Chính quyền tự
trị trong Khối thịnh vượng Anh (CommonWealth) năm 1947. Ấn Độ đổi thành nước
Cộng hoà dân chủ ngày 26/1/1950. Hơn 12 triệu người tỵ nạn Hồi giáo và Hindu
băng qua biên giới Ấn Độ-Pakistan, do các cuộc đánh nhau vì sắc tộc giết hại
trên 200.000 người. Tháng 1/1966, Indira Gandhi được bầu làm Thủ tướng. Ngày
25/3/1971, sau khi quân đội Pakistan tấn công vào người ly khai Bangladesh phía
Đông Pakistan, khoảng 10 triệu người tỵ nạn chạy vào Ấn Độ. Ngày 3/12/1971, Ấn
Độ và Pakistan khởi sự chiến tranh trên cả hai mặt trận phía Đông và phía Tây.
Sau 2 tuần chiến đấu khốc liệt ngày 16/12, quân Pakistan trên mặt trận phía
Đông đầu hàng, và hôm sau Pakistan đồng ý ngưng chiến trên mặt trận phía Tây.
Tháng 6/1975,
Indira Gandhi ban bố tình trạng khẩn cấp, hàng ngàn chính trị gia đối lập bị
bắt. Hành động này và những việc làm độc đoán khác, làm cho chính quyền ngáy
càng bị dân chúng căm ghét. Các đảng phái đối lập hợp nhất với nhau trong liên
minh Janata đẩy đảng Quốc đại của Gandhi khỏi quyền lực trong cuộc bầu cử Quốc
hội Liên bang và Tiểu bang năm 1977. Gandhi trở thành Thủ tướng lần thứ hai
ngày 14/1/1980, và bị ám sát ngày 31/10/1984 bởi hai vệ sĩ người Sikh của bà,
trong một hành động như để đáp trả việc đàn áp người Sikh trong cuộc nổi dậy ở
Punjab trong tháng 6/1984, gồm cả việc tấn công vào ngôi đền vàng tại Amritsar,
nơi để thánh cốt linh thiêng nhất của người Sikh. Bạo loạn nổi lên khắp nơi
theo sau vụ ám sát, hàng ngàn người Sikh bị giết và khoảng 50.000 phải rời bỏ
nhà cửa của họ.
Con trai của
Gandhi, là Rajiv Indira thay thế bà ta trong chức vụ Thủ tướng cho đến giữa năm
1989, thì bị cáo buộc thiếu khả năng và tham nhũng. Rajiv Indira bị ám sát ngày
21/5/1991, trong khi đang vận động để được tái giữ chức Thủ tướng Ấn Độ. Việc
rò rỉ hơi độc tại nhà máy hoá chất tổng hợp Carbide ở Bhopal tháng 12/1984,
giết chết khoảng 14.000 người. Năm 1989, toà án ra phán quyết nhà máy phải bồi
thường 470 triệu USD cho các nạn nhân. Chủ tịch Hội đồng quản trị nhà máy là
Warren Anderson kháng án. Và trong phiên xử phúc thẩm năm 2002, Toà án tối cao
bác đơn kháng án. Nhiều cuộc bạo loạn của người Sikh nổi lên đập phá trong suốt
thập niên 1980. Tháng 5/1987 một quyết định của chính quyền đưa tiểu bang
Punjab đặt dưới sự cai trị của Chính quyền trung ương lại dấy lên một cuộc bạo
loạn mới.
Tháng 5/1988,
chính quyền mở cuộc bao vây đền vàng làm nhiều người chết. Tháng 2/1993, trong
một cuộc bạo loạn sắc tộc tại Assam hàng ngàn người bị giết. Các cuộc đập phá
lan nhanh với tầm mức quốc gia theo sau vụ dân quân Hindu đập phá một ngôi đền
Cổ từ thế kỷ 16. Làn sóng người bạo loạn lớn nhất lịch sử Ấn Độ, là các vụ nổ
bom gây kinh hoàng hai thành phố Bombay và Calcutta từ ngày 12-19/3/1993, giết
chết trên 300 người. Vụ tai tiếng tham nhũng nổi lên trong giới chính trị gia
Ấn Độ trong vào giữa thập niên 1990 khiến đảng Quốc gia chủ nghĩa Ấn Độ không
đủ tỷ số để thành lập chính phủ. Liên minh cánh tả nắm chính quyền ngày
1/6/1996. Ngày 25/7/1997, một người có đẳng cấp thấp trong xã hội, lần đầu tiên
được bầu làm Tổng thống là ông K.R Narayanan.
Mẹ Teresa
người nổi danh về các việc làm từ thiện ở Calcutta chết ngày 5/9/1997. Cuộc bầu
cử Quốc hội tháng 2/1998, đảng Quốc gia chiến thắng, và Atal Bihari VaJpayee
nhận chức Thủ tướng ngày 19/3. Giữa tháng 5, Ấn Độ tiến hành thử nghiệm vũ khí
hạt nhân bị thế giới chỉ trích, làm căng thẳng thêm với Pakistan. Liên minh do
Vajpayee lảnh đạo chiếm đa số ghế trong cuộc bầu cử cơ quan Lập pháp ngày 5/9
và 3/10/1999. Cơn lốc mạnh ập vào tiểu bang Orissa phía Đông Ấn Độ ngày 29/10,
làm gần 10.000 người thiệt mạng. Một trận động đất cực mạnh ở tiểu bang Gujarat
ngày 26/1/2001, làm hơn 20.000 người chết và hơn 166.000 người bị thương. Ấn Độ
cáo buộc Pakistan bảo trợ cho các nhóm khủng bố trong vụ ôm bom tự sát tấn công
Quốc hội tiểu bang Jammu ngày 1/10, và tại Kashmir giết chết gần 40 người.
Ngày 13/12,
một vụ tấn công khác nhắm vào Quốc hội Ấn Độ ở New Delhi giết chết 13 người.
Các cuộc đụng độ giữa người theo đạo Hồi và người theo Ấn giáo ở Gujarat từ
ngày 27/2 đến ngày 11/3/2002 làm hơn 800 người chết. Ông A. P.J Abdul Kalam,
một khoa học gia Hồi giáo cầm đầu chương trình vũ khí hạt nhân Ấn Độ trở thành
Tổng thống ngày 25/7/2002. Ngày 25/8/2003, tại Mumbai nhóm dân quân Hồi giáo
quá khích gây ra hai vụ nổ bom giết chết trên 50 người. Lảnh đạo bởi quả phụ
Rajiv Ganhi, bà Sonia sinh trưởng ở Ý, đảng Quốc đại thắng lợi với đa số ghế
tại Quốc hội trong cuộc bầu cử tháng 4 và tháng 5/2004. Nhưng khi bị những
người theo chủ nghĩa Quốc gia phản đối tư cách ứng viên, bà Sonia đã từ chối
chức Thủ tướng. Và Manmohan Singh một kinh tế gia người Sikh trở thành Thủ tướng.
Trận lụt gió
mùa Nam Á trong tháng 7-8/2004, tại hai tiểu bang Assam, và Bihar giết chết hơn
930 người. Trận sóng thần vùng Ấn Độ Dương ngày 26/12/2004, làm 10.700 người
chết, 5.600 người mất tích, và trên 647.000 người không còn nơi cư trú. Ba vụ
đánh bom tại New Delhi ngày 29/10/2005 bởi nhóm Hồi giáo cực đoan giết chết 60
người. Và 7 vụ tấn công các đoàn xe lửa vào giờ công nhân đi làm ngày 11/7/2006
giết trên 200 người. Trong cuộc bầu chọn Tổng thống ngày 21/7/2007, Pratibha
Patil là người phụ nử đầu tiên thuộc Liên minh Tiến bộ đương quyền được Quốc
hội bầu làm Tổng thống với 65,8% phiếu bầu. Trận lụt gió mùa Nam Á tháng 7 và
tháng 8 cướp đi 2.600 mạng sống, và tàn phá hơn 575.000 ngôi nhà. Vụ đánh bom
xe sứ quán Ấn Độ tại Kabul ngày 7/7/2008, giết chết 58 người, và 147 người bị
thương.
Các vụ đánh
bom ngày 25-26/7/2008 tại Bangalore và Ahmadabad giết chết 46 người, và ngày
13/9 tại New Delhi làm 20 người thiệt mạng. Các trận lụt gió mùa Nam Á từ tháng
6-9 làm hơn 2.200 người chết và ảnh hưởng trên 21,8 triệu người khác. Có ít
nhất 224 người chết nghi là tự sát tại một đền thờ đạo Hindu ở Jodhpur ngày
30/9. Ngày 1/10, Thượng viện Mỹ đã phê chuẩn hiệp ước, theo đó Hoa Kỳ sẽ bán
cho Ấn Độ năng lượng và lò phản ứng hạt nhân, đổi lại Ấn Độ phải để cho thanh
sát viên quốc tế kiểm tra các chương trình hạt nhân dân sự, ngoại trừ 8 lò phản
ứng hạt nhân quân sự. Vào đêm 26/11/2008, bọn khủng bố đã đồng loạt tấn công 10
nơi ở Mumbai (tên cũ Bombay) làm chết ít nhất 171 người trong đó có 27 người
nước ngoài. và 294 người bị thương. Trong số 10 tên khủng bố, thì 9 tên bị giết
và 1 tên bị bắt sống khai tên Ajmal Kasab. Ajmal Kasab bị kết án tử hình ngày
6/5/2010.
Trong cuộc
bầu cử Quốc hội từ 16/4 đến13/5/2009, Liên minh Cấp tiến cầm quyền do đảng Nghị
viện của Thủ tướng Manmohan Singh cầm đầu giành chiến thắng. Mặc dù nền kinh tế
phát triển mạnh từ thập niên 1990, tăng trưởng hàng năm 8,5%, vẫn còn 400 triệu
người dân Ấn Độ sống trong tình trạng nghèo đói.
Lưu ý.
1. Sikkim
ranh giới với Tibet, Bhutan, và Nepal, nguyên trước đây là vùng bảo hộ của Anh
quốc, trở thành vùng bảo hộ của Ấn Độ năm 1950. Vùng này có diện tích 7.093
km2, với dân số (2001): 540.493. Thủ đô: Gangtok. Tháng 9/1974, Quốc hội Ấn Độ
thông qua luật sát nhập Sikkim vào một tiểu bang của Ấn Độ.
2. Kashmir
vùng người Hồi giáo chiếm đa số ở phía Tây Bắc Ấn Độ. Đó là ranh giới giữa Ấn
Độ, Pakistan, Afghanistan, và Trung Quốc. Kashmir luôn đặt trong tình trạng gọi
là “điểm nóng” giữa Ấn Độ và Pakistan từ năm 1947. Ngày 1/1/1949, dưới sự dàn
xếp của Liên Hiệp Quốc một thoả ước ngưng bắn được ký kết, theo đó một phần ba
khu vực là Azad Kashmir ở phía Tây, và Tây Bắc trao cho Pakistan kiểm soát. Hai
phần ba còn lại thuộc về tiểu bang Jammu và Kashmir của Ấn Độ. Tiểu bang nầy có
diện tích 101.348 km2 và 10 triệu cư dân (thống kê năm 2001) đa số là người Ấn
Độ theo Hồi giáo. Thủ đô: Srinagar cho mùa hè, và Jammu cho mùa đông. Cả hai
nơi hài lòng về chính quyền tự trị trong nội địa. Các cuộc đánh nhau lại tái
diển trong vùng.
Năm 1962,
tranh chấp giữa Ấn Độ và Trung Quốc, kết quảTrung Quốc chiếm khu vực Ladakh có
diện tích 36.246 km2. Cũng tại vùng nầy, giữa năm 1965 và 1971 Ấn Độ và
Pakistan cũng nhiều lần đánh nhau. Sau khi Ấn Độ đặt nó trực thuộc chính quyền
trung ương, cư dân nỗi dậy đòi độc lập, và giao tranh giữa quân đội Ấn Độ và
lực lượng đòi ly khai kéo dài suốt trong thập niên 1990. Những trận đánh phát
triển liên quan đến hai chính quyền Pakistan và Ấn Độ, trong đó Ấn Độ bị cáo
buộc là đã trợ giúp những người Hồi giáo ly khai. Nhiều trận đánh ác liệt xảy
ra trong hai tháng 5 và 6/1999. Đầu năm 2002, Pakistan và Ấn Độ, như sẵn sàng
nghinh chiến với hơn 1 triệu quân của hai bên tại ranh giới Kashmir. Căng thẳng
leo thang vào tháng 5, khi các tay súng Hồi giáo giết chết 34 người gồm đàn bà,
và trẻ em căn cứ quân sự gần Jammu.
Pakistan còn
tiến hành thử nghiệm tên lửa hạt nhân vào ngày 25-28/5. Hoa Kỳ đứng ra làm
trung gian hoà giải vào tháng 6/2002 và khủng hoảng trở nên giảm dần. Một thỏa
ước ngưng bắn giữa Ấn Độ và Pakistan cho đường phân ranh định rõ có hiệu lực từ
ngày 25/11/2003, nhưng các trận đánh vẫn tiếp tục giữa quân đội Ấn Độ và dân
quân Hồi giáo. Có khoảng từ 40.000 đến 80.000 thiệt mạng kể từ năm 1989. Ngày
8/10/2005, một trận động đất với cường độ mạnh giết chết 80.000 người, và trên
3 triệu người tiêu tan nhà cửa tại vùng Kashmir thuộc phần đất Pakistan và phía
bắc Pakistan
3. Một nơi
khác, nguyên là 5 thuộc địa của Pháp từ 1952-1954, bằng các sự chuyển giao hoà
bình cho Ấn Độ. Đó là 4 thuộc địa Pondicherry, Karikal, Mahe, Yanaon. Bốn thuộc
địa nầy trở thành vùng hợp nhất Pondicherry có diện tích 491km2, và 973.829 cư
dân (thống kê năm 2001). Còn thuộc địa Chandernagor được sáp nhập vào tiểu bang
West Bengal.
B. Ấn Độ ngày nay.
Hiến pháp và
Chính quyền: Hiến pháp Ấn Độ được Quốc hội Lập hiến thông qua ngày 26/11/1949,
có hiệu lực thi hành ngày 26/1/1950. Từ đó đến nay hiến pháp được tu chỉnh 93
lần. Hiến pháp chỉ rõ Ấn Độ là một nước Cộng hòa thống nhất gồm 28 tiểu bang và
7 vùng lảnh thổ. Mỗi tiểu bang được quản lý bởi một Thống đốc do Tổng thống bổ
nhiệm với nhiệm kỳ 5 năm. Còn 7 vùng lảnh thổ thì Tổng thống trực tiếp quản lý
thông qua một Phó thống đốc hoặc một nhà
quản lý do Tổng thống bổ nhiệm. Tổng thống được bầu bởi Quốc hội với nhiệm kỳ 5
năm, được tái bầu nhiệm kỳ thứ hai. Tổng thống bổ nhiệm Thủ tướng, và các Bộ
trưởng theo đề nghị của thủ tướng. Với tư cách là nguyên thủ quốc gia, theo đề
nghị của Thủ tướng, Tổng thống có quyền phủ quyết dự luật đã được Quốc hội
thông qua. Tổng thống, Thủ tướng và các thành viên của chính phủ phải là thành
viên của Quốc hội. Quốc hội gồm Hạ viện và Thượng viện. Hạ viện có 545 đại biểu
do dân bầu trực tiếp từ các khu vực bầu cử, có nhiệm kỳ 5 năm. Thượng viện có
250 nghị sỉ, là một cơ quan thường trực không bị giải tán, được bầu lên từ các
thành viên của Hạ viện tiểu bang, cứ mỗi 2 năm thì 1/3 nghị sỉ phải được thay
thế.
Cư dân và
lãnh thổ: Con người: Dân số: 1.173.108.000, dưới 15 tuổi 30,1%, trên 65 tuổi 5,3%.
Mật độ dân cư: 394,6 người/km2. Thành phố: 29,7%. Sắc tộc: Indo-Aryan 72%, Dravidian
25%. Ngôn ngữ: Hindi, English, Bengali, Telugu, Marathi, Tamil, Urdu, Gujarati,
Malayalam, Kannada, Oriya, Punjabi, Assamese, Kashmiri, Sindhi, và Sanskrit
(tất cả đều ngôn ngữ chính). Hindustani (một dạng pha trộn Hindi và Urdu tiếng
nói ở phía bắc là phổ biến nhưng không chính thức). Tôn giáo: Hindu 81%, Hồi
giáo 13%, Thiên chúa giáo 2%, Sikh 2%. Đất đai: Tổng diện tích: 3.287.263 km2.
Diện tích đất: 2.973.193 km2. Địa điểm: chiếm hầu hết tiểu lục Ấn Độ ở Nam Á.
Quốc gia láng giềng: Pakistan phía tây. Trung Quốc, Nepal, và Bhutan phía bắc.
Miến Điện, và Bangladesh phía đông. Địa thế: Dãy núi Himalaya cao nhất thế giới
chạy dài băng quan biên giới Bắc Ấn. Thấp hơn là đồng bằng Ganges rộng, đất phì
nhiêu là một vùng có mực độ cư dân đông đúc nhất Thế giới. Một vùng thấp khác
là bán đảo Deccan gần một phần tư phủ kín bởi rừng cây. Thời tiết khác nhau từ
cái nóng nhiệt đới ở phía nam tới cái lạnh gần giống Bắc cực ở phía bắc. Sa mạc
RaJasthan nằm phía tây bắc, vùng đồi núi Assam phía đông bắc có lượng mưa 400
inch hằng năm. Thủ đô: New Delhi. Thành phố đông dân: Bombay 19.695.000,
Calcutta 15.294.000, Madras 7.416.000, Bangalore 7.079.000, Hyderabad 6.627.000,
Ahmadabad 5.606.000 cư dân.
Chính trị và
kinh tế: Loại chính quyền: Cộng hoà liên bang. Nguyên thủ quốc gia: Tổng thống
Pratibha Patil, sinh 19/12/1934, nhậm chức 25/7/2007. Thủ tướng chính phủ:
Manmohan Singh, sinh 26/9/1932, nhậm chức 22/5/2004 (tái bầu 2009). Chính quyền
địa phương: 28 tiểu bang, 6 vùng hợp nhất tự trị, 1 vùng thủ đô quốc gia. Ngân
sách quốc phòng: 35,8 tỷ USD. Quân đội chính quy: 1.325.000. Kinh tế: Công
nghiệp: dệt vải, hóa chất, chế biến thực phẩm, luyện kim, trang thiết bị vận
tải, y dược, ciment, khai thác mỏ, máy móc, phần mềm vi tính. Nông sản: gạo,
lúa mỳ, hạt ngũ cốc khác, đường, gia vị, trà, hạt điều, sợi bông, khoai tây,
sợi đay, các loại hạt có dầu. Tài nguyên: than đá, quặng sắt, quặng nhôm, kim
loại màu, nguyên tố thép không gỉ, nguyên tố mica, đá vôi, kim cương, nguyên tố
mangan, dầu lửa, khí thiên nhiên. Dự trữ nhiên liệu: 5,6 tỷ thùng. Đất nông
nghiệp: 49%. Chăn nuôi: trâu bò 177,8 triệu, gà 505 triệu, dê 125,5 triệu, heo
14 triệu, cừu 64,3 triệu. Đánh cá: 6,9 triệu tấn. Cung cấp điện: 787,5 tỷ Kwh.
Phân bố lao động và đóng góp vào Tổng sản lượng quốc gia: nông nghiệp 52%, đóng
góp 24%; công nghiệp 14%, đóng góp 28%; dịch vụ 34%, đóng góp 48%.
Tài chính và
an sinh: Đơn vị tiền tệ: Đồng Rupee
(tháng 9/2010: 46,2 =1USD). Tổng sản lượng nội địa: 3.600 tỷ. Bình quân
đầu người: 3.100. Tăng trưởng: 7,4%. Nhập khẩu: 268,4 tỷ. Bạn hàng: Trung quốc
8,5%, Hoa Kỳ 5,9%, Đức 4,5%, Singapore 4,5%. Xuất khẩu: 164,3 tỷ. Bạn hàng: Hoa
kỳ: 17,4%, United Arab Emirates 8,5%, Trung Quốc 7,9%, Anh quốc 4,4%. Du lịch: 11,8
tỷ. Ngân sách quốc gia: 214,6 tỷ. Dự trữ ngoại tệ: 169,1 tỷ. Dự trữ vàng: 17,9
triệu ozt. Nợ nước ngoài: 117,2. Giá cả tiêu thụ: tăng 10,9%. Vận chuyển: Đường
xe lửa: 63.207 km. Bằng xe hơi: 8,6 triệu lượt xe, xe hơi cá nhân 10,9 triệu
chiếc. Bằng máy bay: bay 38,9 tỷ km, sân bay 250. Hải cảng: 5- Calcutta,
Bombay, Channai, Vishakhapatnam và Kandia. Truyền thông: Máy truyền hình:
75/1000 cư dân. Radio: 120/1000. Điện thoại: 3,1/100. Internet: 5,1/100 người
sủ dụng. Sức khoẻ y tế: Tuổi thọ: nam 65,5, nữ 67,6. Sinh xuất: 21,3/1000 cư
dân. Tử xuất: 7,5/1000. Tăng dân số tự nhiên: 1,3%. Chết trước tuổi trưởng
thành: 49,1/1000 trẻ sơ sinh. Nhiểm bệnh AIDS: 0,3%. Giáo dục: tuổi cưỡng bức
đi học 6-14, biết đọc biết viết 62,8%, trung học 49%, đại học 7%.
Tham gia tổ
chức quốc tế: Liên Hiệp Quốc (UN) và các tổ chức phụ thuộc của nó như Lương
nông Thế giới (FAO), Ngân hàng Thế giới ( IBRD), Lao động Thế giới (ILO), Quỹ
tiền tệ Thế giới (IMF), Hàng hải Thế giới (IMO), Y tế Thế giới (WHO), và Mậu
dịch Thế giới (WTrO). Khối thịnh vượng Anh (Commonwealth).
A. Tiến trình phát triển.
Nepal buổi
đầu là Công quốc của các bộ tộc nhỏ, một trong số họ là Gurkhas trở thành nhà
cai trị khoảng năm 1769. Năm 1951, Tribhubana Bir Bikram, thuộc gia đình Shah
liên minh với người tự do Nepal, lật đổ và giam gĩư nhà vua Ranas. Bikram thành
lập hệ thống chính quyền nội các, theo chế độ Quân chủ lập hiến năm 1959. Do có
sự mâu thuẩn giữa nhà vua và chính phủ, nên Hiến pháp được tu chính trong năm
1962 và 1990, từ đây một Nội các sẽ có nhiều quyền hành trong khi ngôi Vua chỉ
là nghi thức. Các đảng phái chính trị cũng được hợp pháp hoá từ năm nầy. Nepal
cô lập với thế giới bên ngoài hàng nhiều thế kỷ trước. Ngày nay, Nepal có đường
bộ và đường hàng không đến Ấn Độ, Pakistan, nhưng đến Tibet chỉ bằng đường bộ.
Chế độ đa thê, kết hôn với trẻ em và hệ thống đẳng cấp chính thức xoá bỏ từ năm
1963.
Cuộc bầu cử
ngày 5/11/1994, phe cánh tả thắng thế, thành lập chính quyền Cộng sản đầu tiên
ở Nepal, nhưng chỉ nắm quyền cho đến cuộc bầu cử ngày 10/9/1995. Chín thành
viên của gia đình Hoàng gia Nepal gồm cả vua Birendra và Hoàng hậu Aishwarya bị
giết trong cuộc tàn sát vào đêm 1/6/2001. Cuộc điều tra chính thức buộc tội
thành viên thứ 10 của gia đình Hoàng gia thực hiện cuộc tàn sát ấy là Hoàng
thân Dipendra. Theo phúc trình thì ông ta tự sát 3 ngày sau khi thực hiện cuộc
tàn sát. Sau đó em trai nhà vua là Birendra là Gyanendra được tấn phong làm
vua. Các cuộc nổi dậy của người theo chủ nghĩa Mao tấn công vào quân đội và
cảnh sát, họ tự nhận là đã giết hơn 4.000 viên chức chính phủ từ năm 1996 đến
nay. Sau thỏa ước ngưng bắn 7 năm bị gảy đổ, tháng 8/2003 các cuộc bạo loạn lại
tiếp tục.
Tháng 8/2004,
nhóm tín đồ Hồi giáo cấp tiến đã bắt cóc và giết chết 12 công nhân xây dựng
người Nepal đang trên đường từ Jordan đến nơi làm việc ỏ Iraq. Ngày 1/2/2005,
có nhiều cuộc biểu tình đòi dân chủ, trong đó có 12 người bị cảnh sát bắn chết,
vua Gyanendra ra lệnh giải tán chính phủ, đình chỉ hoạt động của Quốc hội,
tuyên bố tình trạng khẩn trương, và cai trị quốc gia bằng sắc lệnh. Ngày
24/4/2006, vua Gyanendra đồng ý để Quốc hội tái nhóm. Mâu thuẩn giữa nhà Vua và
Quốc hội vẫn căng thẳng. Cuối cùng thì chính phủ mới cũng được thành lập cầm
đầu bởi Thủ tướng Girija Prasad Koirala. Ngày 21/11/2006, một thỏa ước ngưng
bắn đạt được giữa chính phủ và phiến quân Maoist, chấm dứt hơn một thập kỷ nội
chiến làm 13.000 người thiệt mạng.
Tháng
12/2006, Quốc hội thông qua Hiến ước truất quyền nguyên thủ quốc gia của vua
Gyanendra, chỉ định Thủ tướng Koirala làm Quyền nguyên thủ quốc gia. Ngày
15/1/2007, một số thành viên phiến quân Maoist tham gia Quốc hội lâm thời, và
ngày 1/4 tham gia Hội đồng nội các. Nhà Vua bị tước hết quyền hành và ngày
28/5/2008, khi Quốc hội tuyên bố Nepal là một nước Cộng hòa, cũng đồng thời ra
lệnh cho Quốc vương Gyanendra phải rời khỏi hoàng cung trong vòng 15 ngày. Tối
ngày 11/6, trước khi rời khỏi cung điện, Cựu hoàng có tuyên bố “tôn trọng ý
nguyện của người dân, và sẽ không rời khõi quốc gia”. Ông cũng bác bỏ cáo giác
có nhiều tài sản ở hải ngoại. Bằng thủ thuật vận động chính trị ngày 18/8/2008,
lảnh tụ phiến quân Maoist, Pushpa K. Dahal, người được quần chúng ngưởng mộ trở
thành Thủ tướng.
Ngày
3/5/2009, Pushpa K. Dahal cách chức Tổng tư lệnh quân đội, người từ chối thâu
nhận 19.000 phiến quân Maoist vào quân đội Nepal. Ngày 4/5, tổng thống Ram
Baran Yadav hủy bỏ lệnh trên thì Pushpa từ chức. Ngày 25/5, Lảnh tụ đảng Cộng
sản lâu năm là Madhav Kuma Nepal được bổnhiệm làm Thủ tướng. Mâu thuẩn chính
trị giữa đảng Cộng sản và các đảng phái khác làm dự thảo Hiến pháp không được
thông qua như dự liệu. Ngày 30/6/2010, Madhav Kuma Nepal tuyên bố từ chức, và
Quốc hội lại thất bại trong nổ lực chọn người thay thế.
B. Nepal ngày nay.
Hiến pháp và
chính quyền: Hiến pháp Quân chủ Lập hiến năm 1959, tu chỉnh năm 1962, và 1990,
được thay thế bởi Hiến ước tạm thời do Quốc hội thông qua tháng 12/2006, theo
đó vua Gyanendra không còn là nguyên thủ quốc gia nữa. Ngày 23/12/2007, chính
quyền Lâm thời tuyên bố Nepal là một nước Cộng hòa Dân chủ Liên bang và bải bỏ
chế độ Quân chủ. Tuyên bố nầy được Quốc hội thông qua 5 ngày sau đó. Sự thay
đổi nầy được thể hiện trong cuộc bầu cử 601 đại biểu Quốc hội Lập hiến ngày
10/4/2008, trong đó 240 ghế dành cho Quốc hội đương nhiệm, 335 ghế do dân bầu
trực tiếp trong các khu vực bầu cử, và 26 ghế dành cho Chính quyền Lâm thời
đương nhiệm, với trách nhiệm soạn thảo một Hiến pháp mới cho Nepal.
Cư dân và
lãnh thổ: Con người: Dân số 28.951.000, dưới 15 tuổi 356,5%, trên 65 tuổi 4,3%.
Mật độ dân cư: 202 người/km2. Thành phố: 18,1%. Sắc tộc: Newar, Indian, Gurung,
Magar, Tamang, Rai, Limbu, Sherpa, Tharu. Ngôn ngữ: Nepali (chính), 12 ngôn
ngữ, và khoảng 30 phương ngữ địa phương. Tôn giáo: Hindu 81%, Phật giáo 11%, Hồi giáo 4%. Đất
đai: Tổng diện tích: 147.181 km2. Diện tích đất: 143.351 km2. Địa điểm: bên
cạnh chân núi Himalaya. Quốc gia láng
giềng: Trung Quốc phía bắc. Ấn Độ phía nam. Địa thế: Dảy núi Himalaya trải dài
băng qua phía bắc, có đồi nhiều bình nguyên đất đai phì nhiêu mở rộng xuyên
suốt miền trung với đồi thấp, vùng biên phía nam bằng phẳng với thảo nguyên
Ganges bán nhiệt đới. Thủ đô: Kathmandu. Thành phố đông dân: Kathmandu 990.000.
Chính trị và
kinh tế: Loại chính quyền: Cộng hòa. Nguyên thủ quốc gia: Tổng thống Ram Baran
Yadav, sinh 4/2/1948, nhậm chức 23/7/2008. Thủ tướng chính phủ: Madhav Kumar Nepal,
sinh 6/3/1953, nhậm chức 25/5/2009. Chính quyền địa phương: 5 vùng lớn chia
thành 14 khu hành chánh. Ngân sách quốc phòng: 209 triệu USD. Quân đội chính
quy: 95.753. Kinh tế: Công nghiệp: du lịch, dệt thảm, may mặc, chế biến thực
phẩm. Nông sản: gạo, bắp, lúa mì, mía đường. Tài nguyên: tinh thể thạch anh,
nước ngọt, gỗ, thủy điện, than nâu, đồng cobalt, quặng sắt. Dự trử nhiên liệu:
không có số liệu. Đất nông nghiệp: 16%. Chăn nuôi: trâu bò 7 triệu, gà 23,9
triệu, dê 7,8 triệu, heo 1 triệu, cừu 813.621. Đánh cá: 45.425 tấn. Cung cấp
điện: 2,8 tỷ Kwh. Phân bố lao động và đóng góp vào Tổng sản lượng quốc gia:
nông nghiệp 76%, đóng góp 40%; công nghiệp 6%, đóng góp 20%; dịch vụ 18%, đóng
góp 40%.
Tài chính và
an sinh: Đơn vị tiền tệ: Đồng Rupee
(tháng 9/2010: 74,0 =1USD). Tổng sản lượng nội địa: 33,7 tỷ. Bình quân
đầu người: 1.200. Tăng truỏng: 4,7%. Nhập khẩu: 3.6 tỷ. Bạn hàng: Ấn Độ 49%,
Trung Quốc 12,4%, United Arab Emirates 11,7%, Saudi Arabia 5,2%, Kuwait 4,4.
Xuất khẩu: 907 triệu. Bạn hàng: Ấn Độ 59,3%, Hoa kỳ 14%, Đức 5,9%. Du lịch: 336
triệu. Ngân sách quốc gia: 3,7 tỷ. Dự trữ ngoại tệ: 1 tỷ. Dự trữ vàng: không có
số liệu. Nợ nước ngoài: 2,7. Giá cả tiêu thụ: tăng 11,6%. Vận chuyển: Đường xe
lửa: 59,5 km. Bằng xe hơi: 63.500 lượt xe, xe hơi cá nhân 72.700. Bằng máy bay:
bay 815 triệu km, sân bay 10. Truyền thông: Máy truyền hình: 6/1000 cư dân.
Radio: 38/1000. Điện thoại: 2,8/100. Internet: 2,1/100 người sử dụng. Sức khoẻ
y tế: Tuổi thọ: nam 64,6, nữ 67,1. Sinh xuất: 22,4/1000 cư dân. Tử xuất: 6,9/1000.
Tăng dân số tự nhiên: 1,5%. Chết trước tuổi trưởng thành: 46/ 1000 trẻ sơ sinh.
Nhiểm AIDS: 0,5%. Giáo dục: tuổi cưỡng bức đi học 5-9, biết đọc biết viết 57,9%,
trung học 48%, đại học 3%.
Tham gia tổ
chức quốc tế: Liên Hiệp Quốc (UN) và các tổ chức phụ thuộc của nó như Lương
nông Thế giới (FAO), Ngân hàng Thế giới (IBRD), Lao động Thế giới (ILO), Quỹ
tiền tệ Thế giới (IMF), Hàng hải Thế giới (IMO), Y tế Thế giới (WHO) và Thương
mại Thế giới (WTrO).
A. Tiến trình phát triển.
Bhutan dưới
quyền cai trị của Tibetan trong thế kỷ 16. Anh Quốc tăng dần ảnh hưởng trong
thế kỷ 19. Lập thành vương quốc Phật giáo năm 1907. Theo Hiệp ước năm 1910, Anh
Quốc trách nhiệm đối ngoại và quốc phòng, Chính quyền tự trị bản địa lo việc
nội chính. Năm 1949, Bhutan trở thành quốc gia độc lập, nhưng Ấn Độ lại thay
thế Anh Quốc về đối ngoại và quốc phòng, có vài sữa đổi bổ sung trong Hiệp ước.
Bhutan bị cô lập với bên ngoài trong một thời gian dài. Kể từ thập niên 1990, hơn
10.000 người nói tiếng Nepal theo đạo Hindus nhập cư bất hợp pháp bị trục xuất
khỏi Bhutan. Hiện vẫn còn trên 100.000 người Bhutan ở trong trại tỵ nạn do Cao
ủy Liên Hiệp Quốc thành lập phía Đông Nepal từ trên 15 năm nay. Sau 34 năm cai
trị Bhutan, ngày 14/12/2006, vua Jigme Singye Wangchuck từ chức, nhường ngôi
cho con trai.
Tháng
12/2007, bầu cử Hạ viện, và tháng 3/2008 bầu cử Thượng viện. Đây là lần đầu
tiên người dân Bhutan được bầu cử Quốc hội và chính quyền dân chủ. Có 2 đảng
chính trị chính ở Bhutan. Hiến pháp được ban hành tháng 7/2008.
B. Bhutan ngày nay.
Hiến pháp và
chính quyền: Hiến pháp được Quốc hội thông qua và nhà Vua ban hành tháng
7/2008. Theo đó, Bhutan là một quốc gia theo chế độ Quân chủ lập hiến, có Quốc
hội lưởng viện: Hạ viện có 47 đại biểu do dân bầu trực tiếp tại các khu vực bầu
cử. Thượng viện có 25 nghị sỉ, trong đó 20 được bầu và 5 do nhà vua bổ nhiệm.
Ngày 14/12/2006, Jigme Kesar Namgyel Wangchuck kế thừa vua cha đề ra kế hoạch
cải cách bầu cử dân chủ, chính phủ trách nhiệm quản lý xã hội, nhà Vua chỉ mang
tính nghi thức không còn quyền hành. Dù vậy, lảnh tụ đảng chính trị phải cam
kết trung thành với nền Quân chủ. Và nhà vua vẫn là trung tâm sinh hoạt chính
trị của Bhutan.
Cư dân và
lãnh thổ: Con người: Dân số: 699.000, dưới 15 tuổi 29,5%, trên 65 tuổi 5,6%.
Mật độ dân cư: 18,2 người/km2. Thành phố: 33,9%. Sắc tộc: Bhote 50%, Nepalese
35%, du mục bản địa 15%. Ngôn ngữ: Dzongkha (chính), Tibetan, phương ngữ
Nepalese. Tôn giáo: Phật giáo Lamaistic 75%, Hindu: 25%. Đất đai: Tổng diện
tích: 38.394 km2. Diện tích đất: 38.394km2. Địa điểm: Vùng Nam Á, phía đông dảy
núi Himalaya. Quốc gia láng giềng: Ấn Độ phía tây và nam. Trung Quốc phía bắc.
Địa thế: Núi rất cao ở phía bắc, bình nguyên màu mỡ trung tâm và rừng rậm ở
thảo nguyên Duar phía nam. Thủ đô: Thimphu với 89.000 cư dân.
Chính trị và
kinh tế: Loại chính quyền: Quân chủ lập hiến. Nguyên thủ quốc gia: Vua Jigme
Khesar Namgyal Wangchuk, sinh 21/2/1980, nhậm chức 14/12/2006. Thủ tướng chính
phủ: Jigmi Thinley, sinh 9/9/1952, nhậm chức 9/4/2008. Chính quyền địa phương:
18 khu vực tự trị. Ngân sách quốc phòng: 19 triệu. Quân đội chính quy: không có
số liệu. Kinh tế: Công nghiệp: xi măng, sản phẩm gỗ, chế biến thực phẩm, thức
uống, rượu, hợp chất carbon và kim loại. Nông sản: gạo, bắp, dậu phộng, hạt ngũ
cốc khác, cam, chanh. Tài nguyên: gổ, thủy điện, nguyên tố thạch anh, hợp chất
carbon và kim loại trắng nhẹ. Dự trử nhiên liệu: không có số liệu. Đất nông
nghiệp: 2%. Chăn nuôi: trâu bò 385.000, gà 230.000, dê 30.000, heo 35.000, cừu
18.000. Đánh cá: 300 tấn. Cung cấp điện: 4,5 tỷ Kwh. Phân bố lao động và đóng
góp vào Tổng sản lượng quốc gia: nông nghiệp 63%, đóng góp 45%; công nghiệp 6%,
đóng góp 10%; dịch vụ 31%, đóng góp 45%.
Tài chính và
an sinh: Đơn vị tiền tệ: Đồng Ngultrum (tháng 9/2010: 46,3=1USD). Tổng sản
lượng nội địa: 3,3 tỷ. Bình quân đầu người: 4.700. Tăng trưởng: 5,7%. Nhập
khẩu: 533 triệu. Bạn hàng: Ấn Độ 62,8%, Nhật Bản 9,1%, Đức 3,7%. Xuất khẩu: 513
triệu. Bạn hàng: Ấn Độ 69%, Nhật Bản 9,1%, Đức 3,7%. Du lịch: 39 triệu. Ngân
sách quốc gia: 588 triệu. Dự trữ ngoại tệ: 496 triệu. Dự trử vàng: không có số
liệu. Nợ nước ngoài: 0,2 tỷ. Giá cả tiêu thụ: tăng 4,4%. Vận chuyển: Đường xe
lửa: không có số liệu. Bằng xe hơi: không có số liệu. Bằng máy bay: bay 69
triệu km, sân bay 01. Truyền thông: Máy truyền hình 6/1000 cư dân. Radio
19/1000. Điện thoại: 3,8/100. Internet: 7,2/100 người sử dụng. Sức khoẻ y tế:
Tuổi thọ: nam 65,9, nữ 67,6. Sinh xuất: 19,6/1000 cư dân. Tử xuất: 7,3/1000.
Tăng dân số tự nhiên: 1,2%. Chết trước tuổi trưởng thành: 46,9/ 1000 trẻ sơ
sinh. Nhiểm bệnh AIDS: 0,1%. Giáo dục: tuổi cưỡng bức đi học 6-16, biết đọc
biết viết 52,8%, trung học 10%, đại học không có số liệu.
Tham gia tổ
chức quốc tế: Liên Hiệp Quốc (UN) và các tổ chức phụ thuộc của nó như Lương
nông Thế giới (FAO), Ngân hàng Thế giới (IBRD), Quỹ tiền tệ Thế giới (IMF), và
Y tế Thế giới (WHO).
A. Tiến trình phát triển.
Quân xâm lược
Hồi giáo xâm chiếm khu vực của người Ấn Độ từ thế kỷ thứ 12. Sau đó người Anh
cai trị từ thế kỷ 18. Năm 1947, khi Pakistan trở thành quốc gia độc lập, lảnh
thổ của nó bao gồm những nơi có cư dân theo đạo Hồi ở phần phía Tây và phía
Đông Ấn Độ. Chính quyền trung ương Pakistan đặt thủ đô ở phía Tây. Năm 1971, tổ
chức Liên đoàn Awmi có cứ sở ở phía Đông chiến thắng trong cuộc bầu cử chiếm đa
số ghế ở Quốc hội. Chính phủ Pakistan đình hoãn cuộc họp Quốc hội, thế là bạo
loạn nổ ra tại phần phía Đông gọi là Bengal nầy. Ngày 25/4, từ phía Tây, Pakistan
đưa quân đến trấn dẹp bạo loạn. Ngày hôm sau 26/4, Bengal tuyên bố độc lập, lấy
tên là Bangladesh tách khỏi chính quyền trung ương Pakistan phía Tây. Nội chiến
Pakistan-Bangladesh làm 1 triệu người chết, và 10 triệu người chạy sang Ấn Độ.
Ngày
3/12/1971, chiến tranh giữa Ấn Độ và Pakistan bùng nổ. Ngày 16/12 quân đội
Pakistan đầu hàng ở mặt trận phía Đông. MuJibur Rahman được người ta biết tới
nhưlà một thủ lĩnh Hồi giáo trở thành Thủ tướng Bangladesh. Ông ta bị giết
trong cuộc đảo chánh ngày 15/8/1975. Từ thập niên 1970, Bangladesh đi vào quỹ
đạo của Ấn Độ và Liên bang Xô viết như một hành động đáp trả việc Hoa Kỳ ủng hộ
chính quyền Pakistan. Nhiều ngành công nghiệp chính của nền kinh tế quốc gia bị
quốc hữu hoá. Ngày 30/5/1981, Tổng thống Ziaur Rahman bị giết trong một cuộc
đảo chánh không thành công của quân đội. Phó tổng thống Abdus Sattar kế thừa
chức vụ tổng thống, nhưng bị truất quyền trong một cuộc đảo chánh khác do tướng
H.M.Ershad, Tổng Tham mưu trưởng thực hiện tháng 3/1982.
Năm 1988,
Ershad tuyên bố Bangladesh là một nước Cộng hoà Hồi giáo, nhưng hệ thống chính
quyền - Quốc hội đến năm 1991 mới được chấp nhận. Bangladesh là một quốc gia
chịu nhiều sự tàn phá bởi bảo táp, lụt lội hàng năm làm cho hàng ngàn người
chết. Cơn lốc tháng 4/1991 giết chết trên 131.000 người và gây thiệt hại vật
chất trên 2.700 triệu USD. Sự thiếu đói kinh niên trong những vùng đông dân cư
trở nên tồi tệ hơn, khi các mặt hàng sợi đay giảm sút nghiêm trọng trên thị
trường thế giới. Sự ô nhiễm về môi trường tự nhiên và nguồn nước tiêu dùng, bởi
chất độc thải ra từ các nhà máy tạo thành những vấn đề nghiêm trọng về sức khoẻ
trên một diện rộng. Sự rối loạn trong chính trị dẫn đến việc từ chức của thủ
tướng Khaleda Zia ngày 30/3/1996.
Quá phụ của
nguyên tổng thống bị giết Ziaur Rahman, và cũng là con gái của thủ lĩnh Hồi
giáo MuJibur, Hasina Wazed nắm quyền lãnh đạo quốc gia sau cuộc bầu cử ngày
12/6/1996. Tháng 12, Bangladesh và Ấn Độ ký hiệp ước giải quyết vụ tranh chấp
kéo dài về việc sử dụng nguồn nước sông Ganges. Tháng 5/1997, một cơn lốc ập
vào Banglađesh làm cho 800.000 người tiêu tan nhà cửa. Các trận lụt trong tháng
7 và tháng 8/1998, tràn ngập gần như toàn bộ đất nước giết chết trên 1.400
người. Nhiều ngàn người nhiễm bệnh và có ít nhất 30 triệu người điêu đứng khốn
khổ. Một chính quyền chuyển tiếp được xác định vào tháng 7/2001 cho đến cuộc
bầu cử toàn quốc. Khaleda Zia quay trở lại nắm quyền sau cuộc bầu cử Quốc hội
ngày 1/10/2001.
Trận lụt
trong tháng7-8/2004, giết chết trên 950 người và thiệt hại tài sản lên tới 7 tỷ
mỷ kim. Sau nhiều tuần lễ biểu tình bạo loạn khắp nơi, ngày 11/1/2007 chính phủ
ban bố tình trạng khẩn trương trên toàn quốc, và ra lệnh hoãn ngày bầu cử.
Chính quyền lâm thời được quân đội hậu thuẩn nộp đơn kiện hai cựu thủ tướng
Khaleda Zia, và Sheikh Hasina về tội hình sự, buộc hai người nầy phải lưu vong,
nhưng không thành công. Trận lụt gió mùa từ tháng 7-9 làm 840 người chết. Cơn
lốc Sidr ngày 15/11 tràn qua Bangladesh tàn phá trên 1.500 ngôi nhà, ảnh hưởng
lên 8,9 triệu người, và giết chết 3.400 người. Cuộc bầu cử Quốc hội ngày 29/12/2008,
Liên đoàn Awami giành thắng lợi, và ngày 6/1/2009, Sheikh Hasina tuyên thệ nhậm
chức Thủ tướng, chấm dứt 2 năm cai trị bằng tình trạng khẩn trương.
Cuộc nỗi loạn
ngày 25-26/2/2009 tại Bộ tư lệnh Lục quân Bangladesh ở Dhaka, đã bị đàn áp
thẳng tay để lại 74 người chết. Ngày
3/6/2010, một vụ đàn áp khốc liệt khác là bắn thẳng vào đám đông người biểu
tình khu vực Dhaka giết chết ít nhất 117
người.
B. Bangladesh
ngày nay.
Hiến pháp và
chính quyền: Hiến pháp có hiệu lực thi hành ngày 16/12/1972 chỉ rõ Bangladesh
là một nước Cộng hòa thống nhất theo chế độ Tổng thống, và một Quốc hội dân
chủ. Tổng thống được bầu bởi Quốc hội có nhiệm kỳ 5 năm. Tu chính Hiến pháp đưa
ra “trưng cầu dan ý” tháng 8/1991 được cử tri chấp nhận, theo đó thì chế độ
Tổng thống bị bải bỏ và được thay thế bằng chế độ Quốc hội. Chế độ Quốc hội tỏ
ra kém hiệu quả, một tu chính Hiến pháp khác trong năm 1996, tái lập chính
quyền Tổng thống, có một Hội đồng nội các giúp sức. Tổng thống bổ nhiệm các Bộ
trưởng. Tu chính Hiến pháp tháng 5/2004 chỉ rõ Quốc hội Bangladesh chỉ có một
viện là Hạ viện gồm 345 đại biểu, trong đó 300 ghế được bầu trực tiếp từ các
khu vực bầu cử, và 45 ghế dành riêng cho phụ nử với nhiệm kỳ 5 năm.
Cư dân và
lãnh thổ: Con người: Dân số: 156.118.000, dưới 15 tuổi 34,1%, trên 65 tuổi 4,1%.
Mật độ dân cư: 1.199,4 người/km2. Thành phố: 27,6%. Sắc tộc: Bengali 98%,
Bihari, Tribal. Ngôn ngữ: Bangla
(chính), English. Tôn giáo: Hồi giáo
83%, Hindi 16%. Đất đai: Tổng diện tích: 143.998 km2. Diện tích đất: 130.168.
Địa điểm: ở Nam Á trên khúc cong vịnh Bengal. Quốc gia láng giềng: Ấn Độ bao
quanh phía tây, bắc, và đông. Miến điện phía đông, và nam. Địa thế: Hầu hết
quốc gia bằng phẳng thấp, cắt ngang bởi hai con sông Ganges và Brahmaputra cùng
với châu thổ của nó. Đất có nhiều phu sa, và đầm lầy dọc bờ biển với các ngọn
đồi tại phía đầu cực đông nam và đông bắc. Vùng khí hậu nhiệt đới có gió mùa
thổi qua thường xuyên là một trong những nơi có lượng mưa nhiều nhất thế giới.
Thủ đô: Dhaka. Thành phố đông dân: Dhaka 14.251.000, Chittagong 4.816.000,
Khulna 1.636.000 cư dân.
Chính trị và
kinh tế: Loại chính quyền: Tổng thống đại nghị. Nguyên thủ quốc gia: Tổng thống
Zillur Rahman, sinh 9/3/1939, nhậm chức 12/2/2009. Thủ tướng chính phủ: Sheikh
Hasina Wazed, sinh 28/9/1947, nhậm chức 6/1/2009. Chính quyền địa phương: 6 khu
vực tự trị. Ngân sách quốc phòng: 1,2 tỷ. Quân đội chính quy: 157.053. Kinh tế:
Công nghiệp: dệt vải, sợi đay, may mặc, chế biến thực phẩm, đường, trà, chà là,
in ấn, xi măng, phân hóa học, máy điện. Nông sản: gạo, trà,chà là lúa mì, mía
đường, khoai tây, cà chua. Tài nguyên: khí thiên nhiên, gổ, than đá. Dự trữ
nhiên liệu: 28 triệu thùng. Đất nông nghiệp: 55%. Chăn nuôi: trâu bò 25,3
triệu, gà 142 triệu, dê 52,5 triệu, cừu 1,6 triệu. Đánh cá: 2,3 triệu tấn. Cung cấp điện: 22,8 tỷ Kwh. Phân bố lao
động và đóng góp vào Tổng sản lượng quốc gia: nông nghiệp 45%, đóng góp 22%;
công nghiệp 30%, đóng góp 26%; dịch vụ 25%, đóng góp 52%.
Tài chính và
an sinh: Đơn vị tiền tệ: Đồng Taka (tháng 9/2010: 69,3 =1USD). Tổng sản lượng
nội địa: 241,1 tỷ. Bình quân đầu người: 1.500. Tăng trưởng: 5,6%. Nhập khẩu: 20,2
tỷ. Bạn hàng: Trung Quốc 18%, Ấn Độ 12,7%, Kuwait 8%, Singapore 5,6%, Hồng kông
4,2%. Xuất khẩu: 15,9 tỷ. Bạn hàng: Hoa kỳ 25,2%, Đức 12,7%, Anh 9,9%, Pháp 5%.
Du lịch: 74 triệu. Ngân sách quốc gia: 16,3 tỷ. Dự trữ ngoại tệ: 6,5 tỷ. Dự trữ
vàng: 112.779 ozt. Nợ nước ngoài: 20,0 tỷ. Giá cả tiêu thụ: tăng 5,4%. Vận
chuyển: Đường xe lửa: 2.767 km. Bằng xe hơi: 65.000 lượt xe, xe hơi cá nhân
145.900. Bằng máy bay: bay 4,9 tỷ km, sân bay 15. Hải cảng: 2- Chittagong,
Mongla Port. Truyền thông: Máy truyền hình: 7/1000 cư dân. Radio: 50/1000. Điện
thoại: 0,9/100. Internet: 0,4/100 người sử dụng. Sức khoẻ y tế: Tuổi thọ: nam 67,6,
nữ 71,3. Sinh xuất: 23,4/1000 cư dân. Tử xuất: 5,8/1000. Tăng dân số tự nhiên:
1,7 %. Chết trước tuổi trưởng thành: 52,5/ 1000 trẻ sơ sinh. Nhiểm bệnh AIDS:
không có số liệu. Giáo dục: tuổi cưỡng bức đi học 6-10, biết đọc biết viết 55%,
trung học 47%, đại học 5%.
Tham gia tổ
chức quốc tế: Liên Hiệp Quốc (UN) và các tổ chức phụ thuộc của nó như Lương
nông Thế giới (FAO), Ngân hàng Thế giới (IBRD), Lao động Thế giơí (ILO), Quỹ
tiền tệ Thế giới (IMF), Hàng hải Thế giới (IMO), Y tế Thế giới (WHO), và Mậu
dịch Thế giới (WTrO). Khối thịnh vượng Anh. (Commonwealth)
6. SRI LANKA
- DEMOCRATIC SOCIALIST REPUBLIC
OF SRI LANKA.
A. Tiến trình phát triển.
Quần đảo đựơc
người ta biết đến từ thời Cổ đại là Taprobane (người Hy Lạp gọi là màu đồng),
và sau đó là Serdendip (từ Arabic). Người xâm lược Bắc Ấn chinh phục bộ tộc
Veddahs bản địa khoảng 543 Trước công nguyên (TCN), cho đến khi con cháu của họ
người Sinhalese theo Phật giáo lập thành đa số cư dân trên đảo. Con cháu của
người Tamil Hindu định cư trên đảo khoảng 1/5 dân số. Năm 1505, người Bồ Đào
Nha (Portugal) chiếm nhiều phần của đảo quốc, và sau đó là người Hòa Lan vào
đảo năm 1658. Người Anh xâm chiếm toàn bộ đảo quốc từ tay Bồ Đào Nha và Hòa Lan
năm 1796. Năm 1948, trở thành quốc gia độc lập mang tên Ceylon, và là thành
viên của Khối thịnh vượng Anh (Commonwealth). Ngày 25/9/1959 Thủ tướng W.R.D
Bandaranaike bị ám sát.
Vợ ông ta, bà
quả phụ Sirimavo Bandaranaike trở thành Thủ tướng trong các năm 1960-65,
1970-77, và 1994-2000. Năm 1971, Sri Lanka trải qua một thời kỳ khó khăn về
kinh tế và các hoạt động khủng bố do tổ hợp những người cánh tả thực hiện khắp
nơi. Hàng ngàn người trong bọn họ bị xử tử hình. Ngày 22/5/1972, tên nước
Ceylon đổi thành Cọng hòa Sri Lanka. Một cuộc cải cách ruộng đất rộng lớn giữa
những năm 1970, nhiều đồn điền do người nước ngoài làm chủ bị quốc hữu hóa có
bồi thường. Quyền hạn của tổng thống được tăng thêm vào năm 1978 nhằm ổn định
xã hội. Căng thẳng sắc tộc giữa những người Sinhaleses và Tamil ly khai nổ ra
dẫn nội chiến đầu thập niên 1980, làm hơn 65.000 người chết. Cuộc nội chiến vẫn
còn tiếp diễn cho đến hai thập niên tiếp đó.
Người ta còn
ghi nhận 20.000 người đa số là người Tamil trẻ "không còn tìm thấy",
sau khi họ bị đưa vào trại giam bởi đội bảo vệ an ninh chính quyền. Tổng thống
Ranasinghe Premadasa bị ám sát ngày 1/5/1993, bởi một tên bạo loạn Tamil. Sau
cuộc bầu cử Tổng thống ngày 16/8/1994, bà Thủ tướng Chandrika Bandaranaike
Kumaratunga trở thành Tổng thống. Ngày 9/11, với tư cách Tổng thống,
Kumaratunga chỉ định mẹ mình là bà Bandaranaike làm Thủ tướng một lần nữa
(1994-2000). Kumaratunga bị thương trong vụ ôm bom tự sát tấn công khi bà ta
đang vận động bầu cử ngày 18/12/1999, và ba ngày sau đó bà đắc cử Tổng thống
lần thứ hai nhiệm kỳ 6 năm. Vì lý do sức khỏe, bà Bandaranaike từ chức thủ
tướng ngày 10/8 và chết ngày 10/10/2000.
Ngày
10/7/2001, đối diện với viễn cảnh không thuận lợi, Tổng thống Kumaratunga giải
tán Quốc hội. Cuộc bầu cử Quốc hội ngày 5/12, chiến thắng thuộc về đảng Quốc
gia thống nhất do Ranil Wrickremesinghe lãnh đạo. Thỏa hiệp ngưng bắn được ký
ngày 22/2/2002, chấm dứt nội chiến đã kéo dài từ 18 năm qua. Trận lụt gío mùa
Nam Á tháng/2003, giết chết ít nhất 265 người ở miền Nam và Tây nam Sri Lanka.
Ngày 4/11/2003, do bất đồng với Wrickremesinghe trong phương cách thương thảo
với phiến quân Tamil, Kumaratunga lại giải tán Quốc hội. Trong cuộc bầu cử ngày
2/4/2004, Liên minh Tự do nhân dân của bà Kumaratunga chiếm đa số ghế tại Quốc
hội thành lập chính phủ liên hiệp. Bạo loạn lại nổi lên và vụ ôm bom tự sát
trong tháng 7/2004, tại thủ đô Colombo đe dọa cuộc thương thảo đang khởi sự.
Ngày 26/12,
cùng với các nước ở Nam Á trận sóng thần đã giết chết 31.000 người ở Sri Lanka,
4.100 người mất tích, và 519.000 người tiêu tan nhà cửa. Cuộc bầu cử Tổng thống
ngày 17/11/2005, đương kim Thủ tướng Mahinda Rajapaksa của Liên đảng Tự do Nhân
dân đắc cử với 50,3% phiếu bầu, nguyên Thủ tướng Ranil Wickremesinghe lảnh tụ
đảng Thống nhất Quốc gia về nhì với 48,4%. Cử tri tham gia bầu cử 73,7%. Hàng
loạt các cuộc tấn công của phiến quân Tamil Tiger đầu năm 2006, đẩy quốc gia
gần kề với cuộc nội chiến. Tháng 8/2006, các trận đánh lớn giữa quân đội chính
phủ và lực lượng nỗi dậy Hổ Tamil phía Đông bắc Sri Lanka. Tháng 2/2008, chính
phủ tuyên bố rút khỏi Hiệp ước ngưng bắn ký với phiến quân Tamil Tiger vào năm
2002.
Ngày 20/1 và
ngày 7/5/2009, quân chính phủ tung ra các trận đánh cuối cùng nhắm vào phiến
quân Tamil Tiger làm cho 265.000 dân thường phải chạy khỏi nơi cư trú, và giết
chết ít nhất 7.000 người khác. Và ngày 18-19/5, Vellupillai Prabhakaran, người cầm
đầu phiến quân bị giết. Trong cuộc bầu cử tổng thống ngày 26/1/2010, Mahinda
Rajapaksa tái đắc cử với 57% số phiếu bầu.
B. Sri Lanka ngày nay.
Hiến pháp và
chính quyền: Hiến pháp năm 1978 chỉ rõ Sri Lanka là một nước Cộng hòa Dân chủ
Xã hội. Tổng thống nắm quyền Hành pháp do dân bầu trực tiếp với nhiệm kỳ 7 năm
được tái bầu nhiệm kỳ thứ 2. Quốc hội gồm 225 đại biểu do dân bầu trực tiếp từ
các khu vực bầu cử. Nhiệm kỳ của đại biểu Quốc hội là 6 năm. Thủ tướng chính
phủ và các Bộ trưởng phải là thành viên của Quốc hội và được bổ nhiệm bởi Tổng
thống.
Cư dân và
lãnh thổ: Con người: Dân số: 21.513.000, dưới 15 tuổi 23,6%, trên 65 tuổi 8,3%.
Mật độ dân cư: 332,9 người/km2. Thành phố: 14,3%. Sắc tộc: Sinhalese 74%, Tamil
18%, Moor 7%. Ngôn ngữ: Sinhala, Tamil (chính cả hai), English. Tôn giáo: Phật
giáo 69%, Hồi giáo 8%, Hindu 7%, Thiên chúa giáo 6%. Đất đai: Tổng diện tích: 65.610
km2. Diện tích đất: 64.630 km2. Địa điểm: Ngoài khơi Ấn Độ Dương phía đông nam
bờ Ấn Độ. Quốc gia láng giềng: Ấn Độ phía tây bắc. Địa thế: Khu vực ven bờ và
nữa phía bắc đất bằng phẳng, khu vực miền trung và nam là đồi núi. Thủ đô:
Colombia 681.000 cư dân. Kotte (trụ sở Quốc hội) 123.000 cư dân.
Chính trị và
kinh tế: Loại chính quyền: Cộng hòa. Nguyên thủ quốc gia: Tổng thống Mahinda
Rajapaksa, sinh 18/11/1945, nhậm chức 19/01/2005 (tái bầu năm 2010). Chính
quyền địa phương: 9 tỉnh với 25 khu vực tự trị. Ngân sách quốc phòng: 1,5 tỷ.
Quân đội chính quy: 160.900. Kinh tế: Công nghiệp: chế biến cao su, trà, dừa,
lọc dầu, ciment, hàng dệt, may mặc, và thuốc lá. Nông sản: hạt ngủ cốc, hạt có
dầu, cao su, trà, dừa, gạo, đường. Tài nguyên: đá quý, chì, đá vôi, cát,
phosphates, đát sét, thủy điện. Dự trử nhiên liệu: không có số liệu. Đất nông
nghiệp: 14%. Chăn nuôi: trâu bò 1.2 triệu, gà 13,8 triệu, dê 388.600, heo
94.210, cừu 16.480. Đánh cá: 234.797 tấn . Cung cấp điện: 9,5 tỷ Kwh. Phân bố
lao động và đóng góp vào Tổng sản lượng quốc gia: nông nghiệp 32,7%, đóng góp
20%; công nghiệp 26,3%, đóng góp 26%; dịch vụ 41%, đóng góp 54%.
Tài chính và
an sinh: Đơn vị tiền tệ: Đồng Rupee (tháng 9/2010: 112,4=1USD). Tổng sản lượng
nội địa: 96,6 tỷ. Bình quân đầu người: 4.500. Tăng trưởng: 3,5%. Nhập khẩu: 9,7
tỷ. Bạn hàng: Ấn độ 19,2%, Trung Quốc 10,3%, Singapore 8,6%, Iran 5,6%,
Malaysia 5%, Hồng Kông 4,1%. Xuất khẩu: 7 tỷ. Bạn hàng: Hoa kỳ 27,7%, Anh quốc
11,4%, Ấn Độ 9,4%, Bỉ 4,7%, Đức 4%. Du lịch: 342 triệu. Ngân sách quốc gia: 10,4
tỷ. Dự trữ ngoại tệ: 2,9 tỷ. Dự trữ vàng: 170.000ozt. Nợ nước ngoài: 10,9 tỷ.
Giá cả tiêu thụ: tăng 3%. Vận chuyển: Đường xe lửa: 1.488 km. Bằng xe hơi:
507.000 lượt xe, xe hơi cá nhân 280.000. Bằng máy bay: bay 8,3 tỷ km. sân bay
14. Hải cảng: 3- Colombo, Trincomalee và Galle. Truyền thông: máy truyền hình:
102/1000 cư dân, Radio: 211/1000. Điện thoại: 17/100. Internet: 8,8/100 người
sử dụng. Sức khoẻ y tế: Tuổi thọ: nam 73,2 nữ 77,5. Sinh xuất: 15,9/1000 cư
dân. Tử xuất: 6,2/1000. Tăng dân số tự nhiên: 0,9%. Chết trước tuổi trưởng
thành: 18,1/1000 trẻ sơ sinh. Nhiểm bệnh AIDS: 0,1%. Giáo dục: tuổi cưỡng bức
đi học 5-13, biết đọc biết viết 90,6%, trung học 71%, đại học 55.
Tham gia tổ
chức quốc tế: Liên Hiệp Quốc (UN) và các tổ chức phụ thuộc của nó như Lương
nông Thế giới (FAO), Ngân hàng Thế giới (IBRD), Lao động Thế giới (ILO), Quỹ
tiền tệ Thế giới (IMF), Hàng hải Thế giới (IMO), Y tế Thế giới (WHO), và Mậu
dịch Thế giới (WTrO). Khối thịnh vượng Anh (Commonwealth).
7. MALDIVES
- REPUBLIC OF MALDIVES.
A. Tiến trình phát triển.
Người nói
tiếng Diveni đã sinh sống trên quần đảo Maldives từ năm 400 Trước công nguyên
(TCN). Các thương buôn Trung Đông đến đây khoảng năm 1000 (SCN). Quần đảo trở
thành một lảnh địa của vua Hồi năm 1153. Bồ Đào Nha chiếm đảo năm 1558, và bị
trục xuất khỏi đảo năm 1573 bởi Muhammad Thakurufaanu Al-Azam. Giữa những năm
1600, Hòa Lan chiếm đảo nhưng vẫn để cho vua Hồi nắm quyền nội chính. Anh Quốc
thay thế Hòa Lan từ 1887 cho đến khi tuyên bố độc lập ngày 26/7/1965. Vua Hồi
tiếp tục cai trị, và quốc gia trở thành một nước Cộng hòa năm 1968. Tài nguyên thiên
nhiên và du lịch đang phát triển. Tuy nhiên, Maldives vẫn còn là một trong
những nước nghèo nhất thế giới. Du lịch và đánh cá là hai ngành mủi nhọn của
nền kinh tế.
Nước biển
dâng cao đang là mối đe dọa quốc gia bởi vì có ít nhất 1.200 đảo nhỏ dan hô nằm
dưới nước. Cơn sóng thần trên Ấn Độ Dương ngày 26/12/2004, giết chết 82 người
và hơn 21.000 người bị tiêu tan nhà cửa. Tổng thống Gayoom nắm quyền lực từ năm
1978, cai trị độc tài không có đảng phái chính trị hoạt động. Ngày 8/1/2008, Cơ
quan chức năng đang điều tra các Tài khoản tích góp của Gayoom đã cắt xén từ
công quỷ trong việc bán dầu lửa từ 15 năm qua. Trong cuộc bầu cử tổng thống
ngày 29/10/2008, Mohamed (Anni) Nasheed, nhà lãnh đạo, tù nhân chính trị ủng hộ
dân chủ giành chiến thắng trước đương kim tổng thống Abdul Gayoom.
B. Maldives ngày nay.
Hiến pháp và
chính quyền: Hiến pháp có hiệu lực thi
hành từ ngày 1/1/1998, theo đó Quốc hội
(Citizens’ Majlis) gồm 50 đại biểu trong đó 42 do dân bầu trực tiếp tại
các khu vực bầu cử, và 8 được chỉ định bởi Tổng thống với nhiệm kỳ 5 năm. Đảng
phái chính trị không được phép hoạt động tại Maldives. Tháng 6/2005, bắt đầu
chấp nhận đa đảng chính trị. Trong cuộc “trưng cầu dân ý” ngày 18/8/2007, cử
tri chấp nhận duy trì chế độ tổng thống với 62% ủng hộ, chỉ có 38% ủng hộ chế
độ nghị viện. Tổng thống được bầu bởi Quốc hội.
Cư dân và
lãnh thổ: Con người: Dân số: 395.000, dưới 15 tuổi 21,9, trên 65 tuổi 4%. Mật
độ dân cư: 1.327,7 người/km2. Thành phố: 38,9%. Sắc tộc: Dravidian, Sinhalese,
Arab. Ngôn ngữ: Divehi (phương ngữ
Sinhala và chữ viết Arabic: chính), English. Tôn giáo: Hồi giáo (hầu hết Sunni).
Đất đai: Tổng diện tích: 298 km2. Diện tích đất: 298 km2. Địa điểm: giữa Ấn Độ
Dương, phía tây nam của Ấn Độ. Quốc gia láng giềng: gần nhất là Ấn Độ phía bắc.
Địa thế: 19 vành đai với 1.190 đảo san hô, 198 đảo có cư dân, các đảo khác
không có người ở, chiếm 13 km2. Tất cả các đảo gần như bằng phẳng. Thủ đô:
Male: 120.000 cư dân.
Chính trị và
kinh tế: Loại chính quyền: Cộng hòa. Nguyên thủ quốc gia và cầm đầu chính phủ:
Tổng thống Mohamed Nasheed, sinh 17/5/1967, nhậm chức 11/11/2008. Chính quyền
địa phương: 19 vùng đảo và thủ đô Male. Ngân sách quốc phòng: 63 triệu. Quân
đội chính quy: không có số liệu. Kinh tế: công nghiệp chế biến cá, du lịch, tàu
biển, đóng tàu, chế biến dừa, may mặc. Nông sản: dừa, bắp, khoai ngọt. Tài
nguyên: cá. Đất nông nghiệp: 13%. Đánh cá: 184.158 tấn. Cung cấp điện: 260
triệu Kwh. Phân bố lao động và đóng góp vào Tổng sản lượng quốc gia: nông
nghiệp 11%, đóng góp 20%; công nghiệp 23%, đóng góp 18%; dịch vụ 66%, đóng góp
62%.
Tài chính và
an sinh: Đơn vị tiền tệ: Đồng Rufiyaa (tháng 9/2010: 12,8=1USD). Tổng sản lượng
nội địa: 1,7 tỷ. Bình quân đầu người: 4.300. Tăng trưởng: -3%. Nhập khẩu: 782
triệu. Bạn hàng: Singapore 23,3%, United Arab Emirates 15.8%, Ấn độ 11,1%,
Malaysia 7,9%, Thái Lan 7%, Sri Lanka 5,7%. Xuất khẩu: 88 triệu. Bạn hàng: Thái
Lan 32,1%, Anh 13,9%, Sri Lanka 11,6%, Nhật bản 10%, Pháp 6,7%, Algeria 6%. Du
lịch: 664 triệu. Ngân sách quốc gia: 873 triệu. Dự trữ ngoại tệ: 166,4 triệu.
Dự trử vàng: không có số liệu. Nợ nước ngoài: 0,2 tỷ. Giá cả tiêu thụ: tăng 4,5%.
Vận chuyển: Đường xe lửa: không có số liệu. Bằng xe hơi: 4.200 lượt xe, xe hơi
cá nhân 300. Bằng máy bay: bay 34,9 triệu km, sân bay 3. Hải cảng: 2- Male và
Gan. Truyền thông: Máy truyền hình: 38/1000 cư dân. Radio: 129/1000. Điện
thoại: 15,8/100. Internet: 28,4/100 người sử dụng. Sức khoẻ y tế: Tuổi thọ: nam
72, nữ 76,5. Sinh xuất: 14,5/1000 cư dân. Tử xuất: 3,7/1000. Tăng dân số tự
nhiên: 1,0%. Chết trước tuổi trưởng thành: 28,5/1000 trẻ sơ sinh. Nhiểm bệnh
AIDS: không có số liệu. Giáo dục: tuổi cưỡng bức đi học 6-12, biết đọc biết
viết 98,4%, trung hoc 56%, đại học không có số liệu.
Tham gia tổ
chức quốc tế: Liên Hiệp Quốc (UN) và các tổ chức phụ thuộc của nó như Lương
nông Thế giới (FAO), Ngân hàng Thế giới (IBRD), Quỹ tiền tệ Thế giới (IMF).
Hàng hải Thế giới (IMO), và Y tế Thế giới (WHO). Khối thịnh vượng Anh
(Commonwealth).
11 quốc gia
khu vực Đông Nam Á chiếm 4.494.504 km2 diện tích đất, và 609.287.000 cư dân.
Quốc gia lớn nhất là Indonesia chiếm 1.904.569 km2, và quốc gia nhỏ nhất là
Singapore chỉ có 697 km2. Indonesia có trên 240 triệu cư dân, Philippines trên
90 triệu người, và nước có dân số thấp nhất là Brunei chỉ dưới 400 ngàn cư dân.
Myanmar, Thailand và Cambodia có 90% cư dân là tín đồ Phật giáo. Lào, Việt Nam,
Singapore trên 50% theo Phật giáo. Indonesia 80% cư dân là tín đồ Hồi giáo.
Malaysia, Brunei trên 50% theo Hồi giáo. Philippines và Eastimor trên dưới 80%
theo Thiên chúa giáo. Về thể chế chính trị khu vực có 4 quốc gia theo chế độ
Cộng hòa, 2 quốc gia theo thể chế Quân chủ, 2 quốc gia Liên bang, 1 quốc gia
Cộng sản và 2 quốc gia có tên gọi khác nhau là Dân chủ Nhân dân Lào, và Cộng
hòa Nhân dân Eastimor. 11 quốc gia trong
khu vực gồm: Myanmar, Thailand, Laos, Cambodia, Vietnam, Malaysia, Singapore,
Brunei, Philippines, Indonesia và Eastimor.
A. Tiến trình phát triển.
Người
Burmeses đến Miến Điện từ Tibet vào thế kỷ thứ 9 Sau công nguyên (SCN) và thay
thế nền văn hóa đầu tiên của xứ này. Một vương quốc Phật giáo thành lập vào thế
kỷ thứ 11. Miến Điện bị Mông Cổ xâm chiếm năm 1272. Sau đó được cai trị bởi nhà
Shans như là một chư hầu của Trung Quốc cho đến thế kỷ thứ 16. Anh Quốc chinh
phục Miến Điện bằng ba cuộc chiến tranh từ năm 1824 đến 1884, và cai trị nước
này như một phần của Ấn Độ. Năm 1937, Anh Quốc ban cho Miến Điện quy chế tự trị
trong khối Thịnh vượng Anh (Commonwealth). Ngaỳ 4/1/1948, Miến Điện trở thành
quốc gia độc lập. Tướng Ne Win khuynh đảo chính trường Miến Điện từ năm 1962
đến 1988, lúc đầu là một nhà cai trị quân nhân rồi sau đó trở thành một Tổng
thống hợp hiến.
Những người
mang quốc tịch Ấn Độ và Trung Quốc bị loại khỏi hai hoạt động sở trường của họ
là dịch vụ và thương mại. Định hướng xã hội hóa kinh tế và chủ trương tách khỏi
sự phụ thuộc từ nước ngoài được thực hiện xuyên suốt trong thời kỳ nầy. Miến
Điện từng một lần là quốc gia giàu nhất Đông Nam Á, năm 1987, bị Liên Hiệp Quốc
xếp loại quốc gia kém phát triển nhất. Làn sóng chống đối chính quyền và bạo
loạn khắp nơi đưa đến việc Ne Win phải từ chức trong tháng 7/1988. Bạo loạn,
đập phá vẫn còn tiếp tục trên đường phố, và có khả năng lan ra trên toàn quốc.
Tháng 9, quân đội lại lên nắm chính quyền do tướng Saw Maung lảnh đạo. Năm
1989, tên nước Miến Điện đổi thành Myanmar. Ngày 27/5/1990, lần đầu tiên chính
quyền Myanmar tổ chức bầu cử tự do sau gần 30 năm quyền lực nằm trong tay quân
đội.
Quyết định
chung cuộc được công bố là đảng đối lập thắng cử, nhưng quân đội từ chối việc
chuyển giao quyền hành. Ngày 20/7/1990, nhà lãnh đạo đối lập bà Aung San Suu
Kyi bị bắt giam tại gia. Năm 1991, bà được nhận giải Nobel hòa bình, và giải
phải trao tại ngôi nhà nơi bà bị giam. Ngày 10/7/1995, bà được phóng thích
nhưng chính quyền quân sự tiếp tục hạn chế các họat động của bà, và bỏ tù những
người ủng hộ bà ta. Ngày 21/5/1997, chính phủ Hoa Kỳ áp đặt lệnh cấm vận kinh
tế lên Myanmar. Ngày 23/7, Myanmar được thâu nhận vào Hiệp hội ASEAN. Tháng
9/2000, bà Aung San Suu Kyi lại bị bắt giam, và bà được phóng thích ngày
6/5/2002. Ngày 30/5/2003, Suu Kyi bị bắt lần nữa, và mỡ rộng sự đàn áp nhắm vào
những người bất đồng chính kiến.
Hoa Kỳ áp đặt
lệnh cấm vận lên Miến Điện. Cơn sóng thần trên Ấn Độ Dương ngày 26/12/2004,
giết chết 61 người. Tháng 9/2005, trong một báo cáo của cơ quan điều tra trình
lên Liên Hiệp Quốc có hơn 1.100 nhà chính trị đối lập bị bắt cầm tù tại Miến
Điện. Từ 6/11 các cơ quan của chính phủ di dời về Naypyidaw, thủ đô mới bên
trong nội địa gần Pyinmana. Sự phẩn nộ của công chúng trong đợt chính quyền
tăng giá nhiên liệu tháng 8/2007, làm dấy lên một làn sóng chống đối khắp nơi.
Cuối tháng 9, hàng ngàn nhà sư dẫn đầu các đoàn người biểu tình kéo dài gần như
bất tận ngay trong thủ đô Yangon bất chấp sự bắt bớ của chính quyền. Chính
quyền quân sự thẳng tay đàn áp hàng trăm người bị giết, hàng ngàn người bị bắt
có cả sư sải, khiến cộng đồng thế giới lên tiếng chỉ trích.
Cơn bảo nhiệt
đới Nargis ập vào miền Nam Miến Điện vào ngày 2 và 3/5/2008, làm hơn 84.537
người chết, và 53.836 người mất tích. Theo ước tính của cơ quan thiện nguyện có
tới 2,4 triệu người lâm vào cảnh màn trời chiếu đất cần phải được cứu trợ. Có
một sự kiện lạ lùng xẩy ra hồi tháng 5/2009, khi một công dân Mỹ tên Jhon
Yettaw bơi qua hồ nước ở Yangon vào ủng hộ dân chủ nhà bà Aung San Suu Kyi dẫn
tới việc tòa án quân sự tăng thêm 18 tháng quản chế bà Suu Kyi, và 7 năm tù
giam đối với Yettaw. Trong chuyến thăm Myanmar từ ngày 14-16/8, thượng nghị sỉ
Jim Webb can thiệp và Yettaw đã được phóng thích. Ngày 7/11/2010, lần đầu tiên
từ 20 năm qua, Myanmar tổ chức bầu cử Quốc hội.
B Myanmar ngày nay.
Hiến pháp và
chính quyền: Hiến pháp Miến Điện có hiệu lực thi hành ngày 3/1/1974, bị đình hoãn
ngày 18/9/1988, và được cai trị bằng Hội đồng Cai quản Quốc gia. Sau cuộc bầu
cử Nghị viện Nhân dân trong tháng 5/1990, Hội đồng Cai quản Quốc gia tuyên bố
sẽ trao quyền khi Quốc hội thông qua Hiến pháp mới. Nhưng trong tháng 7/1990,
Hội đồng nầy lại tuyên bố rằng Hiến pháp mới phải phù hợp với đường lối chỉ đạo
của Hội đồng. Thế là việc soạn thảo Hiến pháp mới bị đình hoãn vô thời hạn.
Tháng 5/1991, 48 thành viên của Liên minh Dân chủ (NLD) bị kết án tù về tội
gián điệp. Tháng 7, các đại biểu đối lập trong Nghị viện Nhân dân cũng bị cấm
không được tham dự phiên họp tại Quốc hội, bởi vì “giao dịch với người nước
ngoài bất hợp pháp”. Ngày 28/11/1995, chính phủ tái triệu tập Hội nghị Lập hiến
gồm 706 đại biểu trong đó có 107 thành viên của Liên minh Dân chủ (NLD). Hôm
sau ngày 29/11, các đại biểu của Liên minh Dân chủ rút lui khỏi Hội nghị. Tháng
11/1997, Hội đồng Cai quản Quốc gia đổi tên thành Hội đồng Phát triển Quốc gia
và cải tổ sâu rộng nội các. Tháng sau, các cuộc điều tra bắt đầu nhắm vào các
cựu Bộ trưởng bị tố cáo tham nhũngliên quan.
Cư dân và
lãnh thổ: Con người: Dân số: 53.414.000, dưới 15 tuổi 27,9%, trên 65 tuổi 5%.
Mật độ dân cư: 81,7 người/km2. Thành phố: 33%. Sắc tộc: Burman 68%, Shan 9%,
Karen 7%, Rakhine 4%, Chinese 3%, Indian 2%, Mon 2%. Ngôn ngữ: Burmese (chính)
và nhiều ngôn ngữ của các sắc tộc thiểu số. Tôn giáo: Phật giáo 89%, Thiên chúa
giáo 4%, Hồi giáo 4%, Animist 1%. Đất đai: Tổng diện tích: 676.587 km2. Diện
tích đất: 653.508 km2. Địa điểm: nằm giữa nam và Đông Nam Á, trên vịnh Bengal. Quốc gia láng giềng: Bangladesh, và India
phía tây. China, Laos, và Thailand phía đông. Địa thế: Núi bao quanh Myanmar về
phía tây bắc và đông. Rừng rậm chiếm nhiều phần trong nội địa. Các con sông
theo hướng bắc - nam cung cấp nước cho cư dân ở các lưu vực, nhất là tại
Irrawaddy, tàu bè có thể đi lại tới 1.448 km2. Myamar có thời tiết vùng nhiệt
đới gió mùa Nam Á. Thủ đô: Yangon (Rangoon). Thành phố đông dân: Yangon 4.259.000, Mandalay 1.009.000 cư dân.
Chính trị và
kinh tế: Loại chính quyền: Quân sự. Nguyên thủ quốc gia: Tướng Than Shwe, sinh
2/2/1933, nhậm chức 24/4/1992. Thủ tướng chính phủ: Tướng Thein Sein sinh
20/4/1945, nhận chức 24/10/2007. Chính quyền địa phương: 7 tiểu bang, 7 vùng tự
trị. Ngân sách quốc phòng: 7 tỷ. Quân đội chính quy: 406.000. Kinh tế: Công
nghiệp: chế biến nông sản, hàng dệt, giày dép, gỗ và sản phẩm gỗ, khai thác hầm
mỏ, vật liệu xây dựng. Nông sản: gạo, đậu, mè, đậu phụng, mía đường. Tài
nguyên: dầu khí, chì, đồng, thiết, nguyên tố kim lọai nặng, đá quý, đá vôi, than
đá, thủy điện. Dự trữ nhiên liệu: 50 triệu thùng. Đất nông nghiệp: 15%. Chăn
nuôi: trâu bò 12,5 triệu, gà 94,5 triệu, dê 2,1 triệu, heo 6,3 triệu, cừu
570.000. Đánh cá: 2,5 triệu tấn. Cung cấp điện: 6,3 tỷ Kwh. Phân bố lao động và
đóng góp vào Tổng sản lượng quốc gia: nông nghiệp 70%, đóng góp 57%; công
nghiệp 7%, đóng góp 10%; dịch vụ 23%, đóng góp 33%.
Tài chính và
an sinh: Đơn vị tiền tệ: Đồng Kyat (tháng 9/2010: 6,5=1USD). Tổng sản lượng nội
địa: 57,5 tỷ. Bình quân đầu người: 1.100. Tăng trường: 1,8%. Nhập khẩu: 4 tỷ.
Bạn hàng: China 33,6%, Thái Lan 21,2%, Singapore 15,7%, Malaysia 4,6%, Nam
Triều tiên 4,1%. Xuất khẩu: 6,8 tỷ. Bạn hàng: Thailand 48,4%, India 12,6, China
5,2%, Nhật Bản 5,2%. Du lịch: không có số liệu. Ngân sách quốc gia: 2,4 tỷ. Dự
trữ ngoại tệ: 821 triệu. Dự trữ vàng: không có số liệu. Nợ nước ngoài: 6,8 tỷ.
Giá cả tiêu thụ: tăng 1,5%. Vận chuyển: Đường xe lửa: 3.954 km. Bằng xe hơi:
188.000 lượt xe, xe hơi cá nhân 131.000. Bằng máy bay: bay 1,3 tỷ km, sân bay:
25. Hải cảng: 2- Bassein, Moulmein. Truyền thông: Máy truyền hình: 7/1000 cư
dân. Radio: 72/1000. Điện thoại: 1,6/100. Internet: 0,2/100 người sử dụng. Sức
khoẻ y tế: Tuổi thọ: nam 62,2, nữ 66,9. Sinh xuất: 19,5/1000 cư dân. Tử xuất: 8,2/1000.
Tăng dân số tự nhiên: 1,1%. Chết trước tuổi trưởng thành: 50,8/ 1000 trẻ sơ
sinh. Nhiểm bệnh AIDS: 0,7%. Giáo dục: tuổi cưỡng bức đi học 5-9, biết đọc biết
viết 91,9%, trung học 36%, đại học 6%.
Tham gia tổ
chức quốc tế: Liên Hiệp Quốc (UN) và các tổ chức phụ thuộc của nó như Lương
nông Thế giới (FAO), Ngân hàng Thế giới (IBRD), Lao động Thế giới (ILO), Quỹ
tiền tệ Thế giới (IMF), Hàng hải Thế giới (IMO), Y tế Thế giới (WHO), và Mậu
dịch Thế giới (WTrO). Hiệp hội Đông Nam Á (ASEAN).
2. THAILAND - KINGDOM OF THAILAND (THÁI LAN)
A.Tiến trình phát triển.
Người Thái
đến đây từ phía Nam Trung Quốc trong thế kỷ thứ 11. Vương quốc Thái Lan thống
nhất thành lập năm 1350. Thái Lan được người ta biết đến như Siam cho đến 1939.
Là quốc gia duy nhất ở Đông Nam Á không bị các nước phương Tây chiếm làm thuộc
địa. Nhà vua Mongkut và con trai của ông ta là vua Chulalongkorn kế tục cai trị
Thái Lan từ năm 1851 đến 1910. Họ hiện đại hóa đất nước, ký hiệp ước giao
thương với Pháp và Anh. Cuộc cách mang không đổ máu năm 1932, giới hạn quyền
hạn của nhà Vua. Thái Lan là một đồng minh của Nhật Bản trong chiến tranh thế
giói lần thứ hai và cũng là đồng minh của Hoa Kỳ từ sau thế chiến II. Quân đội
khuynh đảo chính trường Thái Lan trong nhiều thập kỷ bằng các cuộc đảo chánh
đẩm máu và không đẩm máu.
Tháng 2/1988,
Kriangsak Chomanan từ chức Thủ tướng bởi
lạm phát vượt quá sự kiểm soát, giá dầu lửa tăng, công nhân thiếu việc làm và
phát triển tội phạm hình sự. Tháng 8/1988, Chatichai Choonhavan được chọn làm
Thủ tướng trong một cuộc bầu cử dân chủ. Tháng 2/1991, quân đội truất quyền
Choonhavan bằng một cuộc đảo chánh không đổ máu. Tháng 5/1992, trong một cuộc
trấn áp biểu tình bạo loạn làm chết trên 50 người. Hội chứng suy giảm miễn
dịch, tức là bệnh SIDA (AIDS) lan nhanh với mức độ lớn ở Thái Lan trong giữa
thập niên 1990. Sự sút giảm kinh tế xuống đến mức Thái Lan phải vay hơn 15 tỷ
Mỹ kim khẩn cấp của Thế giới trong tháng 8/1997.
Ngày
27/9/1997, Quốc hội thông qua Hiến pháp mới. Ngày 9/11, Chuan Leekpai trở thành
Thủ tướng giữa lúc có cuộc khủng hoảng kinh tế, ông áp dụng biện pháp cải cách
tài chánh. Sau cuộc bầu cử Quốc hội tháng 1/2001, Thaksin Shinawatra một thương
gia giàu có trong ngành viễn thông trở thành Thủ tướng. Bị tố cáo tham nhũng
khi còn làm Phó thủ tướng năm 1967, ngày 3/8/2001, Tòa án Hiến pháp Thái Lan
tuyên bố Thaksin vô tội. Theo ước tính của Liên Hiệp Quốc, Thái Lan có hơn
750.000 người lây nhiễm HIV/AIDS. Ngày 26/12/2004, cơn địa chấn sóng thần Nam
và Đông Nam Á, cướp đi trên 5.400 mạng sống, và trên 2.800 mất tích. Đối diện
với làn sóng chống, tố cáo thu lợi bất chính trong việc kinh doanh ngành viển
thông của gia đình, Thủ tướng Thaksin kêu gọi bầu cử ngày 2/4/2006 trước nhiệm
kỳ 3 năm.
Các đảng đối
lập tẩy chay bầu cử, khủng hoảng chính trị bắt đầu. Ngày 19/9, một cuộc đảo
chánh quân sự lật đổ Thủ tướng Thaksin. Cuộc bầu cử Quốc hội ngày 23/12/2007,
đảng Quyền lực Nhân dân, từng ủng hộ đảng Thai Rak Thai của Thaksin giành thắng
lợi chiếm 233/480 ghế. Ngày 22/1/2008, lảnh tụ đảng Samak Sundaravej trở thành
Thủ tướng của Chính quyền dân sự. Ngày 31/7/2008, vợ Thaksin là bà Potjaman
Shinawatra bị kết án tù về tội trốn thuế. Sau một loạt các cuộc biểu tình chống
chính phủ làm tê liệt thủ đô Bangkok, ngày 2/9, Thủ tướng Samak ban bố tình
trạng khẩn trương và cai trị bằng quân luật. Một tuần sau, Samak bị Tòa án Hiến
pháp Thái Lan cách chức Thủ tướng, lý do đã nhận làm đầu bếp quảng cáo cho một
chương trình truyền hình có thù lao, trong khi đang đảm nhậm chức vụ công cử.
Ngày 18/9,
Somchai Wongsawat, anh rể Thaksin trở thành Thủ tướng. Liên minh Dân chủ Nhân
dân (PAD) nổi dậy chống đối, chiếm nhiều cơ quan nhà nước ở thủ đô Vọng Các,
Thủ tướng Somchai Wongsawat phải dời văn phòng vào phi trường nội địa Don
Mueang. Đoàn người biểu tình tràn vào Don Mueang và phi trường quốc tế, khiến
350.000 du khách bị kẹt nhiều ngày. Phe đối lập còn kiện về tính cách hợp pháp
của chính phủ. Ngày 2/12/ 2008, Tòa án Hiến pháp ra lệnh giải tán chính phủ,
cách chức Thủ tướng Somchai Wongsawat và cấm ông nầy hoạt động chính trị 5 năm,
bởi do gian lận trong cuộc bầu cử năm 2007. Ngày 17/12/2008, vua Thái phê chuẩn
lảnh tụ đảng Dân chủ Abhisit Vejjajiva làm Thủ tướng, ông là vị Thủ tướng thứ 3
trong vài tháng qua, và là vị Thủ tướng trẻ có uy tín về thanh liêm.
Bất ổn chính
trị tiếp tục trong năm 2009, khi những người biểu tình ủng hộ Thaksin chiếm
nhiều khu vực tại thủ đô Bangkok khiến chính phủ phải tuyên bố hoản cuộc họp
các nhà lãnh đạo khối ASEAN dự kiến sẽ diển ra vào ngày 11/4 tại Pattaya. Ngày
26/2/2010, tòa án tối cao ra lệnh phong tỏa tài sản của gia đình Thaksin trị
giá 1,4 tỷ USD. người ủng hộ Thaksin gọi là “phe áo đỏ” lại xuống đường biểu
tình, và ngày 7/4 xông vào nhà Quốc hội, chính phủ phải ban hành lệnh thiết
quân luật tại thủ đô Bangkok. Sau đó, phe áo đỏ kết thành một lực lượng cố thủ
tại trung tâm thương mại. Lực lượng an ninh phải mất 5 ngày mới mới lập lại
trật tự. Có ít nhất 54 người chết và 470 người bị thương. Thủ tướng Abhisit
Vejjajiva đã vượt qua được một cuộc bỏ phiếu bất tín nhiệm bởi Quốc hội ngày
2/6/2010.
Ngày 6/7, ông
ta tuyên bố kéo dài thêm 3 tháng tình trạng khẩn trương tại thủ đo Bangkok và
18 tỉnh khác. Cuộc bầu cử Quốc hội ngày .../ 7/2011, đảng của bà Yingluck
Shinawatra, em gái nguyên thủ tướng Thaksin thắng cử, tuyên thẹ nhậm chức thủ
tướng ngày .../8/2011.
B. Thái Lan ngày nay.
Hiến pháp và
Chính quyền: Hiến Pháp Thái Lan là Hiến pháp Quân chủ Lập hiến có hiệu lực thi
hành năm 1997. Sau cuộc đảo chánh tháng 9/2006, một Hiến pháp quá độ có hiệu
lực thi hành từ ngày 1/10/2006, thay thế Hiến pháp năm 1997. Trong cuộc “trung
cầu dan ý” đầu tiên ở nước nầy tổ chức vào ngày 19/8/2007, có 56,7% cử tri bỏ
phiếu ủng hộ Dự thảo Hiến pháp, mở đường cho cuộc bầu cử trước cuối năm. Nó quy
định nhiệm kỳ của Thủ tướng là 4 năm, và chỉ giới hạn trong 2 nhiệm kỳ. Quốc
hội gồm 2 Viện: Hạ viện có 480 đại biểu, trong đó 400 do dân trực tiếp bầu tại
các khu vực bầu cử, và 80 đại biểu dành cho các đảng chính trị theo số lượng
đảng viên.Thượng viện có 150 Nghị sỉ, 76 Nghị sỉ đại diện 76 Tỉnh. 74 Nghị sỉ
còn lại do Ủy ban bầu cử chỉ định.
Cư dân và
lãnh thổ: Con người: Dân số: 67.089.000, dưới 15 tuổi 20,3%, trên 65 tuổi 9%.
Mật độ dân cư: 131,3 người/km2. Thành phố: 33,6%. Sắc tộc: Thai 75%, Chinese
14%. Ngôn ngữ: Thái (chính), Chinese, Malay, Khmer. Tôn giáo: Phật giáo 95%,
Hồi giáo 4%. Đất đai: Tổng diện tích: 513.120 km2. Diện tích đất: 510.890 km2.
Địa điểm: trên bán đảo Indochinese và Malayan ở Đông Nam Á. Quốc gia láng
giềng: Mayanmar phía tây bắc. Lào phía bắc. Cambodia phía đông, Malaysia phía
nam. Địa thế: Một phần ba cao nguyên bằng phẳng, phía đông bắc chạy dài tới lưu
vực sông Chao Phraya với đất phù sa nhiều màu mỡ ở miền trung. Núi rừng phía
bắc với các lưu vực phì nhiêu hẹp. Vùng bán đảo ở phía nam bao phủ bởi rừng mưa
nhiệt đới. Thủ đô: Bangkok với 6.902.000 cư dân.
Chính trị và
kinh tế: Loại chính quyền: Quân chủ lập hiến. Nguyên thủ quốc gia: Vua Bhumibol
AdulyadeJ, sinh 5/12/1927, nhậm chức 9/6/1946. Thủ tướng chính phủ: Yingluck
Shinawatra, sinh ../../..., nhậm chức ../8/2011. Chính quyền địa phương: 76
tỉnh. Ngân sách quốc phòng: 5,1 tỷ. Quân đội chính quy: 305.860. Kinh tế: Công
nghiệp: du lịch, vải vóc, may mặc, chế biến nông sản, thức uống, đèn điện,
thiết bị điện, cơ phận rời, lắp ráp xe cộ, máy vi tính, và thuốc lá. Nông sản:
gạo, bắp, đậu nành, dừa, mía đường, bột sắn tinh chế, cao su. Tài nguyên:
thiếc, cao su, khí đốt, nguyên tố kim loại nặng, gổ, chì, cá, đá vôi, thạch
cao, than nâu. Dự trữ nhiên liệu: 441 triệu thùng. Đất nông nghiệp: 28%. Chăn
nuôi: trâu bò 6,5 triệu, gà 209,1 triệu, dê 310.000, heo 8,4 triệu, cừu 52.000.
Đánh cá: 4,1 triệu tấn. Cung cấp điện: 135,2 tỷ Kwh. Phân bố lao động và đóng
góp vào Tổng sản lượng quốc gia: nông nghiệp 42,4%, đóng góp 10%; công nghiệp 19,7%,
đóng góp 44%; dịch vụ 37,9%, đóng góp 46%.
Tài chính và
an sinh: Đơn vị tiền tệ: đồng Baht
(tháng 9/2010: 30,7=1USD). Tổng sản lượng nội địa: 540,1 tỷ. Bình quân đầu
người: 8.200. Tăng trưởng: -2,2%. Nhập khẩu: 119,0 tỷ. Bạn hàng: Nhật Bản
20,1%, Trung Quốc 10,6%, Hoa kỳ 6,7%, Malaysia 6,6%, United Arab Emirates 5,6%,
Singapore 4,5%. Xuất khẩu: 154,2 tỷ. Bạn hàng: Hoa kỳ 15%, Nhật Bản 12,7%,
Trung Quốc 9%, Singapore 6,4%, Hồng Kông 5,5%, Malaysia 5,1%. Du lịch: 18,2 tỷ.
Ngân sách quốc gia: 51,5 tỷ. Dự trữ ngoại tệ: 86,4 tỷ. Dự trữ vàng: 2,7 triệu
ozt. Nợ nước ngoài: 50,6 tỷ. Giá cả tiêu thụ: tăng -0,8%. Vận chuyển: Đường xe
lửa: 4.070 km. Bằng xe hơi: 3,9 triệu lượt xe, xe hơi cá nhân 5,7 triệu. Bằng
máy bay: bay 51,5 tỷ km, sân bay 65. Hải cảng: 2- Bangkok, Sattahip. Truyền
thông: Máy truyền hình: 274/1000 cư dân. Radio: 234/1000. Điện thoại: 10,4/100.
Internet: 25,8/100 ngưòi sử dụng. Sức
khoẻ y tế: Tuổi thọ: nam 72,9, nữ 77,2. Sinh xuất: 13,/1000 cư dân. Tử xuất: 6,5/1000. Tăng dân số tự nhiên:
0,6%. Chết trước tuổi trưởng thành: 16,7/1000 trẻ sơ sinh. Nhiểm bệnh AIDS:
1,4%. Giáo dục: tuổi cưỡng bức đi học 6-14, biết đọc biết viết 93,5%, trung học
88%, đại học 30%.
Tham gia tổ
chức quốc tế: Liên Hiệp Quốc (UN) và các tổ chức phụ thuộc nó như Lương nông
Thế giới (FAO), Ngân hàng Thế giới (IBRD), Lao động Thế giới (ILO), Quỹ tiền tệ
Thế giới (IMF), Hàng hải Thế giới (IMO),Y tế Thế giới (WHO), và Mậu dịch Thế
giới (WTrO). Hiệp hội Đông Nam Á (ASEAN). Hợp tác Châu Á Thái Bình Dương
(APEC).
A. Tiến trình phát triển.
Lào trở thành
nước chịu sự bảo bộ của Pháp năm 1883. Tái độc lập như một quốc gia Quân chủ
lập hiến năm 1949. Xung đột giữa ba phe nhóm chính trị trung lập, cọng sản, bảo
hoàng tạo ra một tình cảnh chính trị hỗn độn. Xung đột quân sự tăng cao sau năm
1960. Cả ba phe nhóm thoả thuận thành lập chính quyền Liên hợp tháng 6/1962 với
Thủ tướng trung lập là Hoàng thân Souvanna Phouma. Hội nghị 14 quốc gia họp tại
Geneva ký hiệp ước năm 1962 bảo đảm độc lập và Trung lập quốc gia Lào. Năm
1964, phe Pathet Lào Cộng sản rút khỏi chính phủ Liên hợp. Với sự trợ giúp của
quân đội Bắc Việt Nam, Pathet Lào mở lại các cuộc tấn công lấn chiếm lảnh thổ ở
những nơi mà họ cho là thuận lợi. Từ năm 1965, Lào trở thành mục tiêu ném bom
của máy bay Mỹ.
Hoa Kỳ bắt
đầu ném bom trên con đường tiếp tế từ Bắc Việt Nam đến các đơn vị Cộng sản trên
lảnh thổ Lào và Nam Việt Nam từ cuối thập niên 1960 và đầu thập niên 1970.
Tháng 5/1975 sau khi quân đội Pathet Lào cộng tiến gần thủ đô, Thủ tướng
Souvanna Phouma ra lệnh cho quân chính phủ ngưng chiến. Pathet Lào Cộng sản
từng bước nắm quyền kiểm soát toàn bộ lảnh thổ. Ngày 3/12/1975, Cộng hòa Dân
chủ Nhân dân Lào tuyên bố thành lập. Từ giữa thập niên 1970 đến những năm 1980,
chính phủ Lào dựa vào sự trợ giúp quân sự và tài chánh từ Việt Nam. Sau khi có
luật đầu tư nước ngoài dễ dãi năm 1988, Lào được vay thêm 6 tỷ USD từ Thái Lan,
Trung Quốc, Việt Nam, Hoa Kỳ, và các quốc gia khác. Hiệp hội Đông Nam Á (ASEAN)
thâu nhận Lào làm thành viên chính thức ngày 23/7/1997.
Ngày
19/11/2004, Quốc hội Hoa Kỳ thông qua luật bình thường hóa thương mại với Lào.
Tháng 3/2006, tại Đại hội đảng Cộng sản lần thứ 8, được đánh dấu bằng việc trẻ
hóa cấp lảnh đạo. Tại cuộc bầu cử Quốc hội ngày 30/4/2006, đảng Nhân dân Cách
mạng Lào chiếm 113/115 ghế, không đảng phái chếm 2 ghế. Ngày 8/6/2006, Quốc hội
bầu Choummaly Sayasone làm Chủ tịch nước, và Bouasone Bouphavanh làm Thủ tướng.
Tăng trưởng kinh tế từ năm 2003-2009 là 7%, và triển vọng năm 2010 sẽ là 7,8%.
B. Lào ngày nay.
Hiến pháp và
chính quyền: Tháng 8/1991, Quốc hội Lào thông qua Hiến pháp mới, theo đó đảng
Nhân dân Cách mạng là Trung tâm quyền lực, lảnh đạo mọi mặt xã hội Lào, nguyên
thủ Quốc gia là Chủ tịch nước được bầu bởi Quốc hội. Quốc hội có 115 đại biểu
do dân bầu trực tiếp trong các khu vực bầu cử. Đảng phái chính trị bị cấm hoạt
động tại Lào. Có 11 Ủy viên Bộ chính trị đảng Nhân dân Cách Mạng Lào kể cả Chủ
tịch nước Choummaly Sayasone.
Cư dân và
lãnh thổ: Con người: Dân số: 6.368.000, dưới 15 tuổi 40,5%, trên 65tuổi 3,1%.
Mật độ dân cư: 27,6 người/km2. Thành phố: 32%. Sắc tộc: Lao Loum 68%; Lao
Theung 22%, Lao Soung (gồm Hmong và Yao) 9%. Ngôn ngữ: Lào (chính), Pháp, Anh,
và một số ngôn ngữ sắc tộc khác. Tôn giáo: Phật giáo 67%, Animist và khác 33%.
Đất đai: Tổng diện tích: 236.800 km2. Diện tích đất: 230.800 km2. Địa điểm:
trong bán đảo Đông Dương ở Đông Nam Á. Quốc gia láng giềng: Miến Điện và Trung
Quốc phía bắc. Việt Nam phía đông. Cambodia phía nam, Thailand phía tây. Địa
thế: Lào được bao quanh bởi núi rừng. Núi cao dọc theo biên giới phía đông và
là nguồn của các con sông chảy băng qua nội địa đến sông Mê Kông, nơi xác định
đường biên giới phía tây. Thủ đô: Vientiane với 799.000 cư dân.
Chính trị và
kinh tế: Loại chính quyền: Cộng sản. Nguyên thủ quốc gia: Chủ tịch Choummaly
Sayasone, sinh 6/3/1936, nhậm chức 8/6/2006. Thủ tướng chính phủ: Bouasone
Bouphavanh, sinh 3/6/1954, nhậm chức 8/6/2006.
Chính quyền địa phương: 16 tỉnh, 1 khu vực tự trị, và 1 khu đặc biệt. Ngân
sách quốc phòng: 17 triệu. Quân đội chính quy: 29.100. Kinh tế: Công nghiệp:
khai thác hầm mỏ, xây dựng, gỗ xẻ, điện lực, chế biến nông sản, may mặc, du
lịch. Nông sản: khoai ngọt, mía đường, bắp, bông sợi, rau quả, cà phê. Tài
nguyên: gổ, thiếc, thạch cao, vàng, đá quý, thủy điện. Dự trử nhiên liệu: không
có số liệu. Đất nông nghiệp: 4%. Chăn nuôi: trâu bò 1,3 triệu, gà 21,9 triệu,
dê 230.000, heo 2,3 triệu. Đánh cá: 107.800 tấn. Cung cấp điện: 3,5 tỷ Kwh.
Phân bố lao động và đóng góp vào Tổng sản lượng quốc gia: nông nghiệp 80%, đóng
góp 49%; công nghiệp 10%, đóng góp 25%; dịch vụ 10%, đóng góp 26%.
Tài chính và
an sinh: Đơn vị tiền tệ: Đồng Kip (tháng 9/2010: 8.185=1USD). Tổng sản lượng
nội địa: 14,2 tỷ. Bình quân đầu người: 2.100. Tăng trưởng: 6,5%. Nhập khẩu: 2
tỷ. Bạn hàng: Thailand 69%, Trung quốc 11,4, Việt Nam 5,6%. Xuất khẩu: 1,1 tỷ.
Bạn hàng: Thailand 42,4%, Việt nam 10%, Trung Quốc 4,2%, Malaysia 4,2%. Du
lịch: 146 triệu. Ngân sách quốc gia: 1,1 tỷ. Dự trữ ngoại tệ: 448,1 triệu. Dự
trữ vàng: 282.857 ozt. Nợ nước ngoài: 2,5 tỷ. Giá cả tiêu thụ: tăng 7,6%. Vận
chuyển: Đường xe lửa: không có số liệu. Bằng xe hơi: không có số liệu, xe hơi
cá nhân: không có số liệu. Bằng máy bay: bay 112,9 triệu km, sân bay 9. Hải
cảng: không có số liệu. Truyền thông: Máy truyền hình: 10/1000 cư dân. Radio:
145/1000. Điện thoại: 2,6/100. Internet: 4,8/100 người sử dụng. Sức khoẻ y tế:
Tuổi thọ: nam 60,1, nữ 63,9. Sinh xuất: 26,6/1000 cư dân. Tử xuất: 8,3/1000.
Tăng dân số tự nhiên: 1,8%. Chết trước tuổi trưởng thành: 61,2/1000 trẻ sơ
sinh. Nhiểm bệnh AIDS: 0,2%. Giáo dục: tuổi cưỡng bức đi học 6-10, biết đọc
biết viết 72,7%, trung học 33%, đại học 3%.
Tham gia tổ
chức quốc tế: Liên Hiệp Quốc (UN) và các tổ chức phụ thuộc của nó như Lương
nông Thế giới (FAO), Ngân hàng Thế giới (IBRD), Lao động Thế giới (ILO), Quỹ
tiền tệ Thế giới (IMF), và Y tế Thế giới (WHO). Hiệp hội Đông Nam Á (ASEAN).
A. Tiến trình phát triển.
Vương quốc
buổi đầu lập nên tại phần đất Phù Nan (Funan) vào thế kỷ thứ I Sau công nguyên
(SCN). Thời kỳ cực thịnh phát triển thành đế quốc Khmer từ thế kỷ thứ 9 đến thế
kỷ 13 bao gồm cả Thailand, Cambodia, Lào và Nam Việt Nam ngày nay. Pháp lập chế độ bảo hộ năm 1863, và trở thành
quốc gia độc lập năm 1953. Hoàng thân Norodom Sihanouk lên ngôi vua từ 1941 đến
1955, và nguyên thủ quốc gia từ 1960 cố gắng duy trì trung lập. Năm 1970, được sự hậu thuẫn của Hoa Kỳ, tướng
Lon Nol làm đảo chánh chiếm quyền.
Lon Nol yêu
cầu Bắc Việt Nam rút 40.000 quân khỏi Cambodia, bải bỏ chế độ Quân chủ.
Shihanouk đào thoát sang Bắc Kinh lập chính phủ lưu vong, và bắt đầu cuộc chiến
giữa chính phủ và du kích quân Khmer đỏ. Hoa Kỳ cung cấp viện trợ quân sự và
kinh tế cho chính phủ Lon Nol. Cuộc chiến gia tăng, và chính quyền Lon Non ngày
càng yếu thế. Lực lượng Khmer đỏ chiếm thủ đô Phnom Penh ngày 17/4/1975. Chính
quyền mới đuổi cư dân ra khỏi thành phố, thị
trấn và sắp xếp lại dân số ở thôn quê. Thực ra họ cư dân chúng đến các
nơi hoang vắng, núi rừng để thanh lọc và giết hại. Có trên một triệu người bị
giết theo lệnh của những người lãnh đạo Khmer đỏ cực đoan.
Cuộc bầu cử
được Liên Hiệp Quốc bảo trợ ngày 28/3/1993, hai đảng dẫn đầu chia quyền hành
cho đến khi có Hiến pháp mới. Ngày 21/9, Quốc hội Cambodia công bố Hiến pháp
mới, tái lập chế độ Quân chủ. Ngày 24/9, Sihanouk lại lên ngôi Vua. Khmer đỏ
tẩy chay bầu cử, phản đối chính quyền mới, và các cuộc đánh nhau tiếp tục giữa
thập niên 1990.
Tháng 8/1996,
Ieng Sary một lãnh tụ Khmer đỏ từ bỏ hàng ngũ du kích lập ra một nhóm ly khai,
và tuyên bố ủng hộ chế độ Quân chủ. Ngày 5/7/1987, Thủ tướng Hun Sen tiến hành
một cuộc đảo chánh truất phế đối thủ đồng Thủ tướng Hoàng thân Novodom
Ranariddh khỏi chức vụ. Ngày 25/7/1993, Pol Pot lãnh đạo Khmer đỏ từng nắm
quyền trong những năm cuối thập niên 1970, bị các đồng chí của ông ta buộc tội
tại một phiên xử với bản án quản chế tại gia. Ông ta chết ngày 15/4/1998. Đảng
của Hun Sen thắng thế trong cuộc bầu cử Quốc hội ngày 26/7/1998. Cambodia chính
thức được thâu nhận vào Hiệp hội Đông Nam Á (ASEAN) ngày 30/4/1999. Hun Sen còn
tiếp tục giữ chức Thủ tướng sau cuộc bầu cử Quốc hội ngày 27/7/2003, nhưng
không chiếm được đa số ghế tại Hạ viên.
Vì lý do sức
khõe, quốc vương Norodom Sihanouk thoái vị ngày 14/10/2004, kế thừa ngôi vua là
Norodom Sihamoni con trai ông ta tuyên thệ nhậm chức ngày 29/10/2004. Bị tố cáo
phỉ bán Thủ tướng Hun Sen và các thành viên trong Liên minh cầm quyền ngày
3/2/2005, lảnh tụ đối lập Sam Rainsy đào thoát khỏi Cambodia. Sau một năm bị
tước mất quyền đặc miễn, ông đượchà vua ân xá trở về Cambodia. Nguyên Tổng Tư
lệnh quân đội Ta Mok bị bắt hồi năm 1999 chết ngày 21/7/2006, trước khi bị đua
ra xét xử về tội diệt chủng, chống nhân loại. Một lảnh tụ Kher đỏ khác Khieu
Samphan bị bắt ngày 19/11/2007, với cáo buộc tương tự dang chờgày xét xử. Trong
cuộc bầu cử Quốc hội ngày 27/7/2008, đảng của Hun Sen vẫn duy trì vị trí cầm
quyền.
Ngày
26/7/2010 tòa án quốc tế đã tìm thấy hơn 14.000 tù nhân đã bị giết trong các
nhà tù dưới chế độ Khmer Đỏ. Và ngày 16/8/2010 tòa công bố cáo trạng đối với
nguyên chủ tịch Khieu Samphan (bị bắt 2007), và 3 lãnh tụ Khmer Đỏ khác. Phiên
tòa sẽ bắt đầu xét xử giữa năm 2011.
B. Cambodia ngày nay.
Hiến pháp và
chính quyền: Hiến pháp năm 1993 tái lập chế độ Quân chủ Lập hiến, phục hồi ngôi
Vua của cựu hoàng Norodom Sihanouk. Ngày 29/10/2004, con trai Sihanouk là
Norodom Sihamoni được tôn lên làm Vua thay thế Sihanouk thoái vị vì lý do sức khỏe.
Cambodia có Quốc hội lưởng viện. Hạ viện gồm 123 đại biểu do dân bầu trực tiếp
từ các khu vực bầu cử, với nhiệm kỳ 5 năm. Lảnh tụ đảng có đa số ghế tại Hạ
viện sẽ đứng ra thành lập Chính phủ. Trường hợp không có đảng nào chiếm đa số
thì thỏa hiệp với đảng khác bằng chính phủ Liên hiệp. Thượng viện gồm 61 Nghị
sỉ mới thành lập năm 1999.
Cư dân và
lãnh thổ: Con người: Dân số 14.453.000, dưới 15 tuổi 32,2%, trên 65 tuổi 3,7%.
Mật độ dân cư: 81,9 người/km2. Thành phố: 19,8%. Sắc tộc: Khmer 90%, Vietnamese
5%, Chinesse 1%. Ngôn ngữ: Khmer (chính), French, English. Tôn giáo: Phật giáo
Theravada 95%. Đất đai: Tổng diện tích: 181.035 km2. Diện tích đất: 176.515
km2. Địa điểm: vùng Đông Nam Á trên bán đảo Đông Dương (Indochina). Quốc gia
láng giềng: Lào phía đông bắc. Việt Nam phía đông. Thailand phía tây và bắc.
Địa thế: sông Mêkông tạo thành lưu vực trung tâm và hồ Tonle Sap là điểm thấp.
Đồi núi phía đông nam tạo thành một triền dài phân ranh giữa Thailand và
Cambodia theo hướng đông - tây, rừng chiếm 76% vùng này. Thủ đô: Phnom Pênh với
1.519.000 cư dân.
Chính trị và
kinh tế: Loại chính quyền: Quân chủ lập hiến. Nguyên thủ quốc gia: Vua Norodom
Sihamoni, sinh 14/5/1953, nhậm chức 14/10/2004. Cầm đầu chính phủ: Thủ tướng
Hun Sen, sinh 5/8/1952, nhậm chức 30/11/1998 (tái bầu năm 2004 và 2008). Chính
quyền địa phương: 20 tỉnh, và 4 khu vực tự trị. Ngân sách quốc phòng: 222
triệu. Quân đội chính quy: 124.300. Kinh tế: Công nghiệp: may mặc, du lịch, xay
bột, đánh cá, gỗ và sản phẩm gỗ, cao su, xi măng, khai thác đá quý, hàng dệt.
Nông sản: Gạo, bắp, cao su, rau quả. Tài nguyên: gổ, đá quý, quặng sắt, nguyên
tố mangan, nguyên tố phosphates. Dự trử nhiên liệu: không có số liệu. Đất nông
nghiệp: 20%. Chăn nuôi: trâu bò 3,5 triệu, gà 15,2 triệu, dê không có số liệu,
heo 2,8 triệu, cừu không có số liệu. Đánh cá: 522.700 tấn. Cung cấp điện: 1,3
tỷ Kwh. Phân bố lao động và đóng góp vào Tổng sản lượng quốc gia: nông nghiệp
67,9%, đóng góp 35%; công nghiệp 12,7%, đóng góp 30%; dịch vụ 19,4%, đóng góp
35%.
Tài chính và
an sinh: Đơn vị tiền tệ: Đồng Riel (tháng 9/2010: 4.210=1USD). Tổng sản lượng
nội địa: 27,9 tỷ. Bình quân đầu người: 1.900. Tăng trưởng: -0,5%. Nhập khẩu: 5,4
tỷ. Bạn hàng: Thailand 32,3%, Trung Quốc 18%, Hồng Kông 14,3%, Singapore 11,8%.
Xuất khẩu: 3,6 tỷ. Bạn hàng: Hoa kỳ 63%, Anh 4,6%. Du lịch: 1,2 tỷ. Ngân sách
quốc gia: 1,8 tỷ. Dự trữ ngoại tệ: 1,8 tỷ. Dự trữ vàng: 399.832 ozt. Nợ nước
ngoài: 2,4 tỷ. Giá cả tiêu thụ: tăng -0,7%. Vận chuyển: Đường xe lửa: 601km.
Bằng xe hơi: 8.300 lượt xe, xe hơi cá nhân 3.100. Bằng máy bay: 98 triệu km,
sân bay 6. Hải cảng: 2 –Phnom Penh, Sihanoukvile. Truyền thông: Máy truyền
hình: 9/1000 cư dân. Radio: 128/1000. Điện thoại: 0,4/100. Internet: 0,5/100
người sử dụng. Sức khoẻ y tế: Tuổi thọ: nam 60, nữ 64,7. Sinh xuất: 25,6/1000
cư dân. Tử xuất: 8,2/1000. Tăng dân số tự nhiên: 1,7%. Chết trước tuổi trưởng
thành: 56,9/1000 trẻ sơ sinh. Nhiểm bệnh AIDS: 0,8%. Giáo dục: tuổi cưỡng bức
đi học 6-14, biết đọc biết viết 77,6%, trung học 22%, đại học 1%.
Tham gia tổ
chức quốc tế: Liên Hiệp Quốc (UN) và các tổ chức phụ thuộc của nó như Lương
nông Thế giới (FAO), Ngân hàng Thế giới (IBRD), Lao động Thế giới (ILO), Quỹ
tiền tệ Thế giới (IMF), Hàng hải Thế giới (IMO), Y tế Thế giới (WHO), và Thương
mại Thế giới (WtrO). Hiệp hội Đông Nam Á (ASEAN).
A. Tiến trình phát triển.
Lịch sử Việt
Nam bắt đầu từ miền Bắc trước Thiên chúa giáng sinh bởi người Việt, từ miền
Nam Trung Quốc. Việt Nam bị Trung Quốc
chiếm trị năm 111 Trước công nguyên (TCN) đến năm 939 Sau công nguyên (SCN).
Sau khi thâu hồi độc lập, Việt Nam từng đánh bại quân xâm lăng Kublai Khan
(Mông Cổ) năm 1288. Bị Pháp xâm chiếm năm 1858, đến năm 1884 họ lập ra chế độ
“bảo hộ” tại miền Bắc (Tonkin) “tự trị” tại miền Trung (Annam), và “thuộc địa”
tại phía Nam (Colony of Cochin-China). Nhật Bản chiếm Việt Nam năm 1940. Nhiều
khuynh hướng mong muốn độc lập dân tộc ra sức tập hợp lực lượng cho mục tiêu
này. Một trong những khuynh hướng này là Việt Nam Độc lập Đồng minh hội, cầm
đầu bởi Hồ Chí Minh, người lãnh đạo quân du kích Cộng sản.
Tháng 8/1945,
Việt Minh truất quyền Bảo Đại, người mà trước đó là Hoàng đế An Nam và đang cầm
đầu một Chính quyền được Nhật bảo trợ. Là một nước của phe đồng minh thắng
trận, Pháp muốn tái lập cai trị thuộc địa ở Việt Nam, đánh nhau với lực lượng
Việt Minh cộng sản từ năm 1946 đến 1954, và bị lực lượng này đánh bại tại Điện
Biên Phủ ngày 8/5/1954. Trong thời gian nầy, thì ngày 1/7/ 1949 với sự bảo trợ
của Pháp, Bảo Đại thành lập Chính phủ Quốc gia Việt Nam. Còn Trung Quốc thì hậu
thuẫn cho Chính phủ Cộng sản do Hồ Chí Minh lảnh đạo. Ngày 20/7/1954 tại
Geneve, Thuỵ Sĩ một Hiệp ước đình chiến được ký bởi các bên liên quan, theo đó
vùng Phi quân sự phân ranh tại Vĩ tuyến 17, Pháp rút khỏi Việt Nam, và Việt Nam
sẽ thống nhất sau cuộc tổng tuyển cử vào tháng 7 năm 1956.
Trong thời
gian chờ đợi, chính phủ Việt Nam Dân chủ Cọng hòa do Hồ Chí Minh lảnh đạo quản
lý phần đất phía Bắc vĩ tuyến 17, và Chính phủ Quốc gia Việt Nam do cựu hoàng
Bảo Đại lảnh đạo quản lý phần đất phía Nam vĩ tuyến 17. Cả hai chính quyền Bắc,
Nam song song tồn tại, dưới danh nghĩa như các chính phủ chuyển tiếp. Ngày
23/10/1955, Ngô Đình Diệm, người được Quốc trưởng Bảo Đại chỉ định làm Thủ
tướng Quốc gia Việt Nam tại phía Nam, dưới sự đạo diển của Hoa Kỳ tổ chức
một cuộc “trưng cầu dân ý” truất phế Bảo
Đại. Ba hôm sau, Ngô Đình Diệm tự phong Tổng thống, đổi tên “Quốc gia Việt Nam”
thành “Việt Nam Cọng hoà”. Nhân danh Tổng thống Việt Nam Cọng hoà, Ngô Đình
Diệm từ chối Hiệp thương tổng tuyển cử thống nhất Việt Nam theo dự kiến sẽ tiến
hành trong năm 1956.
Cuộc chiến
Việt Nam bắt đầu năm 1957 tại miền Nam, bởi những người Cộng sản nằm vùng
thường gọi là Việt cộng, và được Cộng sản miền Bắc ra sức hổ trợ từ năm 1959.
Ngày 31/12/1959, Bắc Việt Nam công bố Hiến pháp mới dựa vào nguyên tắc Cọng
sản, và kêu gọi tái thống nhất hai miền Bắc-Nam. Xung đột chính trị nghiêm
trọng nổ ra tại Nam Việt Nam trong năm 1963, khi Phật giáo công khai lên án
chính sách độc tài, kỳ thị tôn giáo của Chính quyền Ngô Đình Diệm. Điều này dẫn
tới một cuộc đảo chánh quân sự lật đổ Chính quyền Diệm ngày 1/11/1963. Nhiều
cuộc đảo chánh quân sự khác xảy ra sau đó. Từ đây, Chính quyền miền Bắc đưa
quân đội cùng với trang thiết bị do Liên Xô và Trung Quốc cung cấp tiến hành
đánh phá miền Nam. Lực lượng nầy còn có nhiều căn cứ lớn ở khu vực biên giới
Lào và Campuchia.
Cũng từ năm
1964 nầy, Hoa Kỳ bắt đầu các cuộc ném bom Bắc Việt Nam. Năm 1965, Hoa Kỳ từng
bước leo thang đánh phá các công trình trọng yếu ở miền Bắc, và gởi quân tham
chiến tại Nam Việt Nam. Sau cuộc Tổng công kích của Cộng quân vào dịp Tết Mậu
Thân năm 1968, Hoa Kỳ ồ ạt đưa quân vào Nam Việt Nam. Đến tháng 4/1969, Hoa Kỳ
có tới 543.400 quân, cùng với trên 50.000 quân đồng minh của Hoa Kỳ như Nam Triều
Tiên, New Zealand, Úc Đại Lợi, Philippinese tại đây. Tháng 6/1969, trong khi
các bên tham chiến đang tiến hành đàm phán tại Paris, Pháp Quốc tìm một giải
pháp cho cuộc chiến, thì Tổng thống Nixon tuyên bố Việt Nam hóa chiến tranh, và
bắt đầu ra lệnh rút quân khỏi Việt Nam. Cuối tháng 3/1972 quân Bắc Việt tràn
qua ranh giới Vĩ tuyến 17 đánh chiếm tỉnh Quảng Trị và một số nơi khác ở Cao
nguyên.
Hoa Kỳ trả
đũa bằng cách trở lại ném bom Bắc Việt Nam, và yểm trợ quân Nam Việt Nam tái
chiếm Quảng Trị và các nơi đã bị chiếm. Ngày 27/1/1973, tại Paris thỏa ước
ngưng bắn được ký kết bởi Hoa Kỳ, Bắc Việt Nam, Nam Việt Nam, và Mặt trận Giải
phóng Miền Nam (tức Cộng sản miền Nam), nhưng nó không bao giờ được thực thi
trọn vẹn. Ngày 11/3/1975, Quân đội Bắc Việt Nam tấn công Cao nguyên Trung phần
của Nam Việt Nam. Quân đội Nam Việt Nam rút lui khỏi Cao nguyên và trở thành
một đội quân bại trận hỗn loạn. Ngày 30/4/1975, Cộng quân chiếm Sài Gòn thủ đô
của Nam Việt Nam. Hai chính quyền Cộng sản là Việt Nam Dân chủ Cọng hòa tại
miền Bắc, và Chính phủ Lâm thời Cộng hòa Miền Nam Việt Nam tại miền Nam song
song tồn tại, nhưng đích thực Bắc Việt Nam mới là người kiểm soát toàn bộ đất
nước.
Ngày
2/7/1976, Việt Nam chính thức thống nhất thành một quốc gia duy nhất. Thủ đô,
quốc kỳ quốc ca, quốc huy và tiền tệ Bắc Việt Nam được áp dụng trên toàn lãnh
thổ. Gần như tất cả các chức vụ chủ chốt, và viên chức trong Chính phủ Bắc Việt
Nam, đều được duy trì trong Chính phủ mới.
Năm 1987,
Việt Nam tuyên bố cải cách kinh tế. Ngày 11/7/1995, Hoa Kỳ mở rộng quan hệ
ngoại giáo với Việt Nam, và bình thường hoá quan hệ giữa hai nước.
Trong tháng
10-11/1999, trận lụt ở miền Trung Việt
Nam giết chết 550 người và làm cho hơn 600.000 gia đình bị mất nhà cửa. Ngày
13/7/2000, Hoa Kỳ và Việt Nam ký hiệp ước trao đổi thương mại toàn diện. Ngày
17-19/11, Tổng thống Mỹ Bill Clinton thực hiện một cuộc thăm viếng lịch sử đến
Việt Nam. Ngày 22/4/2001, tại Đại hội đảng Cộng sản lần thứ IX, Nông Đức Mạnh,
một nhân vật ôn hòa được bầu làm Tổng Bí thư. Tại Đại hội đảng lần thứ X diển
ra trong tháng 4/2006, Nông Đức Mạnh được tái bầu vào chức vụ Tổng bí thư
Đảng.Ngày 5/6/2006, một hiệp ước về an ninh và quốc phòng được ký kết giữa Việt
Nam và Hoa Kỳ.
Người ta tin
rằng, Việt Nam sẽ đẩy mạnh cải cách hơn nữa khi hai nhà cải cách Nguyễn Minh
Triết, và Nguyễn Tấn Dũng trở thành Chủ tịch nước, và Thủ tướng chính phủ ngày
27/6.2006. Trong cuộc bầu cử Quốc hội ngày 20/5/2007, các đảng viên Cộng sản
chiếm 450/493 ghế đại biểu Quốc hội, 43 ghế còn lại thuộc về các ứng viên không
đảng phái. Trong cuộc thăm viếng Hoa Kỳ
ngày 22/7/2007, Chủ tịch nước Nguyễn Minh Triết được Tổng thống George W. Bush
đón tiếp trọng thể tại tòa Bạch Cung. Đây là cuộc thăm viếng đầu tiên của nhà
lảnh đạo cao nhất Việt Nam thăm Hoa Kỳ kể từ Chiến tranh Việt Nam. Hoa Kỳ trở
thành đối tác hàng đầu nhập khẩu hàng hóa từ Việt Nam, mậu dịch hàng năm giữa
hai nước tăng lên tới 15 tỷ USD. Đến năm 2009, Hoa Kỳ đã đầu tư vào Việt Nam 10
tỷ USD.
Đàu năm 2011,
Đại hội đảng Cộng sản Việt Nam lần thứ XI đã bầu Nguyễn Phú Trọng làm Tổng Bí
thư. Đến giữa năm bầu cử Quốc hội, sau đó Quốc hội nhóm họp bầu Trương Tấn Sang
làm Chủ tịch nước, Nguyễn Tấn Dũng tái đãm nhiệm Thủ tướng.
B. Việt Nam ngày nay.
Hiến pháp và
Chính quyền: Hiến pháp đựơc Quốc hội thông qua và ban hành ngày 15/4/1992, theo
đó, đảng Cộng sản nắm quyền cai quản xã hội theo chủ nghĩa Mac-Lênin và tư
tưởng Hồ chí Minh, nhưng chỉ hạn chế trong chức năng quản lý nhà nứơc. Quyền
hạn của Quốc hội được gia tăng trong thời gian gần đây. Có 493 đại biểu Quốc hội
được bầu lên với nhiệm kỳ 5 năm. Ứng viên phải được đảng Cộng sản chỉ định,
hoặc Mặt trận Tổ quốc giới thiệu, hoặc tự mình ra ứng cử. Quốc hội họp hàng năm
3 lần. Quốc hội bầu Chủ tịch nước, người sẽ cầm đầu Hội đồng An ninh Quốc gia
và ban hành Sắc lệnh trong thời gian Quốc hội không nhóm họp. Quốc hội bổ nhiệm
Thủ tướng theo đề nghị của Chủ tịch nước.
Cư dân và
lãnh thổ: Con người: Dân số 89.571.000, dưới 15 tuổi 25,6%, trên 65 tuổi 5,5%.
Mật độ dân cư: 288,9 người/km2. Thành phố: 29,8%. Sắc tộc: Vietnamese 86,
Chinese, Hmong, Thai, Khmer, Cham, Mường. Ngôn ngữ: Vietnamese (chính), Pháp,
Anh,Trung quốc. Tôn giáo: Phật giáo 9%, Thiên chúa giáo 7%, Không tôn giáo 81%.
Đất đai: Tổng diện tích: 331.210 km2. Diện tích đất: 310.070 km2. Địa điểm:
Vùng Đông Nam Á phía đông bờ bán đảo Đông Dương (Indochina). Quốc gia láng
giềng: Trung Quốc ở phía bắc. Lào và Cambodia phía tây. Địa thế: Việt nam dài
và hẹp, với 2.252 km bờ biển. Khoảng 22% đất có thể gieo trồng, gồm lưu vực
sông Hồng nơi có cư dân dày đặt ở phía Bắc, đồng bằng dọc theo bờ biển hẹp ở
miền Trung, và một vùng rộng thường ngập nước châu thổ sông Mê Kông miền Nam.
Phần còn lại gồm núi non cằn cỏi và cao nguyên, khô hạn cùng với một số rừng
mưa nhiệt đới. Thủ đô: Hà nội. Thành phố đông dân: Thành phố Hồ Chí Minh 5.976.000
cư dân, Hà nội 2.668.000, Hải phòng 1.941.000.
Chính trị và
kinh tế: Loại chính quyền: Cộng sản. Nguyên thủ quốc gia: Chủ tịch Trương Tấn
Sang, sinh ../../..., nhậm chức ../../2011. Thủ tướng chính phủ: Nguyễn tấn
Dũng, sinh 17/11/1949, nhậm chức 27/6/2006 (tái bầu 2011). Chính quyền địa
phương: 58 tỉnh, 3 thành phố, và 1 vùng thủ đô. Ngân sách quốc phòng: 2,8 tỷ.
Quân đội chính quy: 455.000. Kinh tế: Công nghiệp: dệt, chế biến thực phẩm, may
mặc, giày dép, xây dựng, máy móc, khai thác mỏ. Nông sản: gạo, bắp, khoai tây,
đậu nành, cà phê, trà, cao su. Tài nguyên: nguyên tố mangan, nguyên tố
phosphate, Crôm, quặng nhôm, than, dầu lửa, khí đốt, gổ, thủy điện. Dự trữ
nhiên liệu: 600 triệu thùng. Đất nông nghiệp: 20%. Chăn nuôi: trâu bò 6,8 triệu,
gà 150 triệu, dê 1,6 triệu, heo 26,5 triệu, cừu không có số liệu. Đánh cá: 3,6
triệu tấn. Cung cấp điện: 66,8 tỷ Kwh. Phân bố lao động và đóng góp vào Tổng
sản lượng quốc gia: nông nghiệp 51,8%, đóng góp 22%; công nghiệp 15,4%, đóng
góp 40%; dịch vụ 32,7%, đóng góp 38%.
Tài chính và
an sinh: Đơn vị tiền tệ: Đồng VN (tháng 9/2010: 19.455=1USD). Tổng sản lượng
nội địa: 256,9 tỷ. Bình quân đầu người 2.900 USD. Tăng trưởng: 5,3%. Nhập khẩu:
65,1 tỷ. Bạn hàng: Trung Quốc 17,2%, Singapore 12,6%, Taiwan 11,2%, Nhật Bản
9,5%, South Korea 9,3%, Thailand 7,1%, Malaysia 4%. Xuất khẩu: 57,0 tỷ. Bạn
hàng: Hoa kỳ 20,7%, Japan 12%, Australia 9,2%, China 5,6%, Germany 4,4%. Du
lịch: 3,9 tỷ. Ngân sách quốc gia: 29,2 tỷ. Dự trữ ngoại tệ: 10,4 tỷ. Dự trữ
vàng: không có số liệu. Nợ nước ngoài: 16,6 tỷ. Giá cả tiêu thụ: tăng: 7,1%.
Vận chuyển: Đường xe lửa: 2.600 km. Bằng xe hơi: 205.900 lượt xe, xe hơi cá
nhân không có số liệu. Bằng máy bay: bay 8,5 tỷ km, sân bay 37. Hải cảng: 3 -
Hồ Chí Minh, Hải phòng, Đà nẵng. Truyền thông: Máy truyền hình: 184/1000 cư
dân. Radio: 107/1000. Điện thoại: 34,9/100. Internet: 27,3/100 người sử dụng.
Sức khoẻ y tế: Tuổi thọ: nam 69,5, nữ 74,7. Sinh xuất: 17,3/1000 cư dân. Tử
xuất: 6/1000. Tăng dân số tự nhiên: 1,1%. Chết trước tuổi trưởng thành: 21,6/1000
trẻ sơ sinh. Nhiểm bệnh AIDS: 0,5%. Giáo dục: tuổi cưỡng bức đi học 6-14, biết
đọc biết viết 92,5%, trung học 61%, đại hoc 11%.
Tham gia tổ
chức quốc tế: Liên Hiệp Quốc (UN) và các tổ chức phụ thuộc của nó như Lương
nông Thế giới (FAO), Ngân hàng Thế giới (IBRD), Lao động Thế giới (ILO), Quỹ
tiền tệ Thế giới (IMF), Hàng hải Thế giới (IMO), và Y tế Thế giới (WHO). Hiệp
hội Đông Nam Á (ASEAN). Hợp tác Châu Á -Thái Bình Dương (APEC).
Lưu ý: Đảng Cộng sản Việt Nam thành lập năm 1930, đến năm 1996
có 2,2 triệu đảng viên.
Tổng Bí thư
đảng từ năm 1976: Lê Duẫn (1976-1986), Trường Chinh (1986), Nguyễn Văn Linh
(1986-1991), Đỗ Mười (1991-1997), Lê Khả Phiêu (1997-2001), Nông Đức Mạnh
(2001-2011), Nguyễn Phú Trọng (2011-
).
Ủy viên Bộ
Chính trị từ 1996: Khóa 8: (1) Đỗ Mười, Lê Đức Anh, Võ Văn Kiệt, Nông Đức Mạnh,
Lê Khả Phiêu, Phan Văn Khải, Nguyễn Mạnh Cầm, Nguyễn Đức Bình, Nguyễn Văn An,
Phạm Văn Trà, Trần đức Lương, Nguyễn Thị Xuân Mỹ, Trương Tấn Sang, Lê Xuân
Tùng, Lê Minh Hương, Phạm Thế Duyệt, Nguyễn Tấn Dũng. (2) Lê Khả Phiêu, Nguyễn
Văn An, Phạm Văn Trà, Trần đức Lương, Nguyễn Thị Xuân Mỹ, Trương Tấn Sang, Lê
Xuân Tùng, Lê Minh Hương, Nguyễn Tấn Dũng, Phạm Thế Duyệt, Nguyễn Đức Bình,
Nông Đức Mạnh, Phan Văn Khải, Nguyễn Mạnh Cầm, Nguyễn Phú Trọng, Phạm Thanh
Ngân, Nguyễn Minh Triết, Phan Diễn. Khóa 9: Nông Đức Mạnh, Nguyễn Văn An, Phạm
Văn Trà, Trần Đức Lương, Trương Tấn Sang, Nguỹen Tấn Dũng, Phan Văn Khải,
Nguyễn Phú Trọng, Nguyễn Minh Triết, Phan Diễn, Nguyễn Khoa Điềm, Trương Quang
Đựơc, Lê Hồng Anh, Trần Đình Hoàn. Khóa 10: Nông Đức Mạnh, Lê Hồng Anh, Nguyễn
Tấn Dũng, Nguyễn Minh Triết, Trương Tấn Sang, Nguyễn Phú Trọng, Phạm Gia Khiêm,
Phùng Quang Thanh, Trương Vỉnh Trọng, Lê Thanh Hải, Nguyễn Sinh Hùng, Phạm
Quang Nghị, Hồ Đức Việt, Nguyễn Văn Chi.
Chính quyền
Nhà nước từ năm 1976: (1) Chủ tịch nước hoăc Chủ tịch Hội đồng Nhà nước: Tôn
Đức Thắng (1976-1980), Nguyễn Hữu Thọ (1980-1981), Trường Chinh (1981-1987), Võ
Chí Công (1987-1992), Lê Đức Anh (1992-1997), Trần Đức Lương (1997-2006),
Nguyễn Minh Triết (2006-2011), Trương Tấn Sang (2011- ). (2) Thủ tướng Chính phủ hoăc Chủ tịch
Hội đồng Bộ trưởng: Phạm Văn Đồng (1976-1987), Phạm Hùng (1987-1988), Võ Văn
Kiệt (1988), Đỗ Mười (1988-1991), Võ Văn Kiệt (1991-1997), Phan Văn Khải (1997-2006),
Nguyễn Tấn Dũng (2006- ).
A. Tiến trình phát triển.
Thương nhân
Châu Âu vào buôn bán với Malaysia từ thế kỷ 16. Anh Quốc chiếm trị năm 1867.
Liên bang Malaysia được thành lập ngày 16/9/1963, gồm Malaysia (độc lập năm
1957), và các thuộc địa Anh như Singapore, Sabab (bắc Borneo) và Savawak (tây
bắc Borneo). Năm 1965, do xung đột giữa người gốc Trung Quốc chiếm đa số và
người Mã Lai nắm chính quyền, Singapore tách ra thành lập Quốc gia riêng. Quốc
vương Malaysia được bầu với nhiệm kỳ 5 năm, bởi Hội đồng các vị vua cai trị
Tiểu bang cha truyền con nối. Nguồn tài nguyên thiên nhiên phong phú, đã tạo
nên sự hưng thịnh, và đầu tư nước ngoài góp phần công nghiệp hóa Malysia. Thủ
đô Liên bang mới tại Putrajaya, phía nam Kuala Lumpur khởi công năm 1995, nhưng
do thị trường chứng khoán sút giảm nghiêm trọng vào tháng 9/1997, khiến dự án
phải hoãn lại.
Do suy thoái
kinh tế và bất ổn chính trị, Thủ tướng Mahathir bin Mohamad nắm quyền từ năm
quyền từ năm 1981, áp đặt biện pháp kiểm soát tiền tệ, và cách chức Phó thủ
tướng Anwar bin Ibrahim vào ngày 2/9/1998. Anwar bị bắt, và bị buộc tội tham
nhũng. Phiên tòa xét xử ngày 14/4/1999 với bản án 6 năm tù giam. Anwar còn bị
một tội khác, tội đồng tính luyến ái và tại phiên xử ngày 8/8/2000, bị thêm 9
năm tù giam. Ngày 31/10/2003, Abdullah Ahmad Badawi, nhận chức Thủ tướng kế
nhiệm Mahathir. Badawi lảnh đạo Mặt trận Liên minh Quốc gia tái giành chiến
thắng trong cuộc bầu cử Quốc hội ngày 21/3/2004. tháng 9/2004, Anwar được tha khỏi
tù bởi một quyến định của Tòa án Liên bang.
Trận sóng
thần trên Ấn Độ Dương ngày 26/12/2004, làm 68 người chếy và trên 8.000 người
tiêu tan nhà cửa. Cuộc bầu cử Quốc hội Liên bang và Nghị viện 13 Tiểu bang ngày
8/3/2008, Liên minh Mặt trận Quốc gia gồm 14 đảng (BN, Barisan Nasional) chiếm
140 ghế, Tổ chức Quốc gia Malaysia Thống nhất (UMNO), 79 ghế, đảng Công lý Nhân
dân (PKR) 31 ghế, đảng Dân chủ Hành động (PTD) 28 ghế, và đảng Hồi giáo
Malaysia (PAS) 23 ghế. Liên minh Mặt trận Quốc gia gồm 14 đảng (BN, Barisan
Nasional) cũng chiếm đa số ghế tại 8/13 Nghị viện Tiểu bang. Badawa vẫn còn ở
chức Thủ tướng. Dư luận bàn tán khá nhiều việc nhà lảnh đạo Mặt trận Quốc gia
Najib Razak giữ chức Thủ tướng chính phủ ngày 3/4/2009.
B. Malaysia ngày nay.
Hiến pháp và
Chính quyền: Hiến pháp Malaysia là Hiến
pháp Liên bang có dành đặc quyền cho 2 vùng Sabah và Sarawak. Tu chính
Hiến pháp năm 1983, quy định các Tiểu vương sẽ bầu trong số họ ra một vị Vua
làm nguyên thủ Malaysia với nhiệm kỳ 5 năm. Thủ tướng chính phủ là lảnh tụ đảng
chiếm đa số ghế tại Hạ viện. Và tu chính năm 1993, bải bỏ đặc quyền miễn tố
trước tòa án dành cho các Tiểu Vương. Quốc hội Malaysia gồm 2 viện: Hạ viện có
219 đại biểu do dân bầu trong các khu vực bầu cử cụ thể với nhiệm kỳ 5 năm. Hạ
viện có thể bị giải tán bất cứ lúc nào bởi nhà Vua Liên bang theo đề nghị của
Thủ tướng Chính phủ. Thượng viện: có 70 Nghị sỉ gồm 26 ghế dành cho 13 nghị
viện Tiển bang, mỗi Tiểu bang 2 Nghị sỉ. 44 ghế còn lại do Quốc hội và nhà Vua
chỉ định với nhiệm kỳ 3 năm.
Cư dân và
lãnh thổ: Con người: Dân số: 28.274.000, dưới 15 tuổi: 31%, trên 65 tuổi 5,1%.
Mật độ dân cư: 86 người/km2. Thành phố: 71,3. Sắc tộc: Malay và dân bản địa
khác 58%, Chinese 24%, Indian 8%. Ngôn ngữ: Malay (chính), English, phương ngữ
Chinese, Tamil, Telugu, Malayalam, Panjabi, Thai, Iban, và kadazan ở phía đông.
Tôn giáo: Hồi giáo 60%, Phật giáo 19%, Thiên chúa giáo 9%, Hindu 6%, Khổng và
Lảo giáo 3%. Đất đai: Tổng diện tích: 329.847 km2. Diện tích đất: 328.657 km2.
Địa điểm: tại điểm cuối của đất liền Đông Nam Á, cọng thêm một phần bờ phía Bắc
của đảo Borneo. Quốc gia láng giềng: Thái Lan ở phía bắc. Indonesia phía nam.
Địa thế: Hầu hết phía tây Malaysia là rừng nhiệt đới bao phủ gồm cả dảy núi
miền trung chạy dài từ bắc đến nam xuyên qua bán đảo. Bờ phía tây đầm lầy, phía
đông là bãi cát. Malaysia có một vùng bằng phẳng rộng ở phía đông, nước ngập
ven bờ, và rừng núi bên trong nội địa. Thủ đô: Kuala Lumpur (Tài chánh): 1.493.000
cư dân, Putrajaya (Chính phủ): không có số liệu.
Chính trị và
kinh tế: Loại chính quyền: Quân chủ lập hiến. Nguyên thủ quốc gia: Vua HRH
Sultan Mizan Zainal Abidin ibni al-Mahrum Sultan Mahmud Al-Muktafi Billah Shah,
sinh 22/1/1962, nhậm chức 13/12/2006. Thủ tướng chính phủ: Narib Razak, sinh
năm 23/6/1953, nhậm chức 3/4/2009. Chính quyền địa phương: 13 tiểu bang, 3 vùng
liên bang. Ngân sách quốc phòng: 4,0 tỷ. Quân đội chính quy: 109.000. Kinh tế:
Công nghiệp: cao su, dầu cọ, thiết bị điện, điện gia dụng, khai thác mỏ, luyện
kim, chế biến dầu, gổ. Nông sản: Cao su, dầu cọ, cocoa, gạo, dừa, và hạt tiêu.
Tài nguyên: thiết,dầu khí, gổ, đồng, quặng sắt, nhôm. Dự trữ nhiên liệu: 4 tỷ
thùng. Đất nông nghịêp: 5%. Chăn nuôi: trâu bò 829.000, gà 190 triệu, dê
285.000, heo 2,3 triệu, cừu 110.000. Đánh cá: 1,5 triệu tấn. Cung cấp điện: 106,7
tỷ Kwh. Phân bố lao động và đóng góp vào Tổng sản lượng quốc gia: nông nghiệp
13%, đóng góp 7%; công nghiệp 36%, đóng góp 34%; dịch vụ 51%, đóng góp 59%.
Tài chính và
an sinh: Đơn vị tiền tệ: Đồng Ringgit (tháng 9/2010: 3,1=1USD). Tổng sản lượng
nội địa: 383,6 tỷ. Bình quân đầu người: 14.900. Tăng trưởng: -0,7%. Nhập khẩu:
119,3 tỷ. Bạn hàng: Nhật Bản 13,3%, Hoa Kỳ 12,6%, Trung Quốc 12,2%, Singapore
11,7%, Thai Lan 5,5%, Taiwam 5,5%, South Korea 5,4%. Xuất khẩu: 157,6 tỷ. Bạn
hàng: Hoa kỳ 18,8%, Singapore 15,4%, Japan 8,9%, China 7,2%, Thailand 5,3%. Du
lịch: 15,3 tỷ. Ngân sách quốc gia: 58,5 tỷ. Dự trữ ngoại tệ: 60,8 tỷ. Dự trữ
vàng: 1,1 triệu ozt. Nợ nước ngoài: 53,4 tỷ. Giá cả tiêu thụ: tăng 0,6%. Vận
chuyển: Đường xe lửa: 1.888 km. Bằng xe hơi: 482.000 lượt xe, xe hơi cá nhân
53.000. Bằng máy bay: bay 44,5 tỷ km, sân bay 36. Hải cảng: 4-Kuantan, Kelang,
Kota Kinabalu, Kuching. Truyền thông: Máy truyền hình: 174/1000 cư dân. Radio:
434/1000. Điện thoại: 15,7/100. Internet: 57,6/100 triệu người sử dụng. Sức
khoẻ y tế: Tuổi thọ: nam 70,8, nữ 76,5. Sinh xuất: 21,4/1000 cư dân. Tử xuất:
4,9/1000. Tăng dân số tự nhiên: 1,6%. Chết trước tuổi trưởng thành: 15,5/1000
trẻ sơ sinh. Nhiểm bệnh AIDS: 0,5%. Giáo dục: tuổi cưỡng bức đi học 6-11, biết
đọc biết viết 92,1%, trung học 98%, đại
học 12%.
Tham gia tổ
chức quốc tế: Liên Hiệp Quốc (UN) và các tổ chức phụ của nó như Lương nông Thế
giới (FAO), Ngân hàng Thế giới (IBRD), Lao động Thế giới (ILO), Quỹ tiền tệ Thế
giới (IMF), Hàng hải Thế giới (IMO), Y tế Thế giới (WHO), và Mậu dịch Thế giới
(WTrO). Hiệp hội Đông Nam Á (ASEAN). Hợp tác Châu Á - Thái Bình Dương (APEC).
7. SINGAPORE - REPUBLIC OF
SINGAPORE.
A. Tiến trình phát triển.
Singapore
thành lập năm 1819, bởi Sir Thomas Stamford Raffles là một thuộc địa Anh cho
đến năm 1959, khi nó trở thành một Đơn vị tự trị trong Khối thịnh vượng Anh.
Ngày 16/9/1963, Singapore kết hợp với Malaya, Sarawak và Saba lập thành Liên
bang Malaysia. Căng thẳng giữa người Malayans chiếm đa số trong Liên bang, và
sắc tộc Chinese chiếm ưu thế trong Singapore dẫn tới Hiệp ước, theo đó
Singapore trở thành một Quốc gia độc lập vào ngày 9/8/1965. Hải cảng Singapore
là một trong những cảng lớn nhất của thế giới. Tiêu chuẩn sống, sức khỏe, y tế,
giáo dục, nhà ở đạt mức cao. Tiền đóng vào ngân hàng thế giới tăng nhanh trong
những năm gần đây. Chính quyền khuynh đảo bởi một đảng duy nhất đã thực hiện
những biện pháp mạnh triệt tiêu những bất đồng từ trong trứng nước.
Tháng
12/2001, chính quyền đã chận đứng được một âm mưu cho nổ tung tòa đại sứ Hoa
Kỳ. Tháng 9/2002, chính phủ loan báo đã bắt 21 dân quân là thành viên của tổ
chức Jemaah Islamiah, một nhóm Hồi giáo cực đoan hoạt động tại Đông Nam Á. Từ
ngày độc lập đến nay Singapore chỉ có 3 Thủ tướng: (1) Lý Quang Diệu người
khuynh đảo chính trường, nắm chức Thủ tướng từ 1959-1990, (2) Goh Chok Tong từ
1990-2004, và (3) con trai Lý Quang Diệu là Lý Hiển Long nhận chức từ
12/8/2004. Ngày 12/7/2005, tại tòa Bạch Ốc Thủ tướng Lý Hiển Long và Tổng thống
ký hiệp ước thắc chặt hơn nữa về quốc phòng giữa 2 nước. Cuộc bầu cử Tổng thống
dự kiến sẽ tổ chức ngày 27/8/2005, bị đình hoãn bởi không có ứng cử viên dự
tranh. Ứng cử viên đương kim Tổng thống S.R. Nathan đắc cử Tổng thống khong có
đối thủ.
Trong cuộc
bầu cử 84 đại biểu Quốc hội ngày 6/5/2006, đảng Nhân dân Hành động đương quyền
chiếm 82 ghế, gồm 37 ghế có sẵn trước ngày bầu cử bởi phe đối lập không tham
gia bầu cử. Lạm phát tăng nhanh trong năm 2008, bởi giá nhà, thực phẩm, và vận
chuyển tăng trong khi xuất khẩu giảm. Nền kinh tế Singapore dựa vào xuất khẩu,
khi kinh tế thế giới suy giãm năm 2008 thì Singapore cũng ảnh hưởng, nhưng đã
hồi phục trở lại trong năm 2009 và 2010.
B. Singapore ngày nay.
Hiến pháp và
Chính quyền: Hiến pháp Singapore có hiệu lực thi hành ngày 3/6/1959, và Tu
chính năm 1965. ba ngành Lập pháp, Hành pháp, và Tư pháp được phân rõ trong
Hiến pháp. Quốc hội có 84 đại biểu với nhiệm kỳ 2 năm được bầu từ một đơn vị
bầu cử duy nhất. Ứng viên phải được 9 thành viên đại biểu Quốc hội đương nhiệm
giới thiệu. Tổng thống là nguyên thủ Quốc gia với nhiệm kỳ 6 năm. Chức năng
Quản lý nhà nước được trao cho Nội các đứng đầu là Thủ tướng. Thủ tướng và các
thành viên trong Nội các do Tổng thống chỉ định trong số các đại biểu Quốc hội.
Tiền lương của các chính trị gia cầm quyền Singapore cao nhất thế giới: Lương
Tổng thống 3.187.000 đô la Singapore, tương đương 2.100.000 đô la Mỹ; lương Thủ
tướng 3.091.000 đô la Singapore, tương đương 2.000.000 đô la Mỹ. Lương Thủ tướng
Lý Hiển
Long cao hơn 5 lần lương Tổng thống Bush.
Cư dân và
lãnh thổ: Con người: Dân số 4.701.000, dưới 15 tuổi 14,1%, trên 65 tuổi 9%. Mật
độ dân cư: 6.842,9 người/km2. Thành phố: 100%. Sắc tộc: Chinese 77%, Malay 14%,
Indian 8%. Ngôn ngữ: Chinese, Malay, Tamil, English (tất cả đều chính). Tôn
giáo: Phật giáo, Hồi giáo, Lão giáo, Thiên chúa giáo Lamã, Hindu. Đất đai: Tổng
diện tích: 697 km2. Diện tích đất: 687 km2. Địa điểm: đảo tận cùng ngoài khơi
của bán đảo Malayan ở Đông Nam Á. Quốc gia láng giềng: gần nhất về phía bắc là
Malaysia. Indonesia phía nam. Địa thế: Singapore là một quốc gia có địa thế
bằng phẳng tạo thành bởi các đảo ngập nước nhiều ngàn năm trước đây gồm hơn 40
đảo nhỏ. Thủ đô: Singapore: 4.737.000 cư dân.
Chính trị và
kinh tế: Loại chính quyền: Cộng hòa. Nguyên thủ quốc gia: Tổng thống S.R. Nathan,
sinh 3/7/1924, nhậm chức 1/9/1999 (tái nhiệm tháng 8/2005). Thủ tướng chính
phủ: Lý Hiển Long, sinh 10/2/1952, nhậm chức 12/8/2004 (tái bầu 2006, 2008,
2010). Ngân sách quốc phòng: 8,2 tỷ. Quân đội chính quy: 72.500. Kinh tế: Công
nghiệp: điện gia dụng, y dược, dịch vụ tài chánh, trang thiết bị khoang dầu,
lọc dầu, sản phẩm cao su. Nông sản: dừa khô, cao su, trái cây, rau quả, phong
lan. Đất nông nghiệp: 1%. Chăn nuôi: trâu bò 200, gà 2,7 triệu, dê 600, heo
260.000. Đánh cá: 11.676 tấn. Cung cấp điện: 39,2 tỷ Kwh. Phân bố lao động và
đóng góp vào Tổng sản lượng quốc gia: nông nghiệp 2%, đóng góp 1%; công nghiệp
23,8%, đóng góp 31%; dịch vụ 75,2%, đóng góp 68%.
Tài chính và
an sinh: Đơn vị tiền tệ: Đồng Dollar
(tháng 9/2010: 1,3=1USD). Tổng sản lượng nội địa: 243,2 tỷ. Bình quân đầu
người: 52.200. Tăng truởng: -1,3%. Nhập khẩu: 240,5 tỷ. Bạn hàng: Malaysia 13%,
Hoa kỳ 12,7%, Trng Quốc 11,4%, Japan 8,3%, Taiwan 6,4%, Indonesia 6,2%, Nam
Triều Tiên 4,4%. Xuất khẩu: 374,5 tỷ. Bạn hàng: Malaysia 13,1%, Hoa kỳ 10,2%,
Hong Kong 10,1%, Trung Quốc 9,7%, Indonesia 9,2%, Japan 5,5%, Thailand 4,2%. Du
lịch: 10,7 tỷ. Ngân sách quốc gia: 24,1 tỷ. Dự trữ ngoại tệ: 119,8 tỷ. Dự trữ
vàng: không có số liệu. Nợ nước ngoài: 19,4 tỷ. Giá cả tiêu thụ: tăng 0,6%. Vận
chuyển: Đường xe lửa: 38 km. Bằng xe hơi: 463.000 lượt xe, xe hơi cá nhân
141.400. Bằng máy bay: bay 79 tỷ km, sân bay 8. Hải cảng: 1-Singapore. Truyền
thông: Máy truyền hình: 341/1000 cư dân. Radio: 744/1000. Điện thoại: 39,1/100.
Internet: 72,2/100 người sử dụng. Sức khoẻ y tế: Tuổi thọ: nam 79,5 nữ 84,9.
Sinh xuất: 8,7/1000 cư dân. Tử xuất: 4,8/1000. Tăng dân số tự nhiên: 0,4%. Chết
trước tuổi trưởng thành: 2,3/1000 trẻ sơ sinh. Nhiểm bệnh AIDS: 0,2%. Giáo dục:
tuổi cưỡng bức đi học 6-11, biết đọc biết viết
94,5%, trung học 67%, đại học 34%.
Tham gia tổ
chức quốc tế: Liên Hiệp Quốc (UN) và các tổ chức phụ thuộc của nó như Lương
nông Thế giới (FAO), Ngân hàng Thế giới (IBRD), Lao động Thế giới (ILO), Quỹ
tiền tệ Thế giới (IMF), Hàng hải Thế giới (IMO), Y tế Thế giới (WHO), và Thương
mại Thế giới (WTrO). Hiệp hội Đông Nam Á (ASEAN). Hợp tác Châu Á - Thái Bình
Dương (APEC). Khối Thịnh vượng Anh (Commonwealth).
8. BRUNEI - STATE OF BRUNEI
DARUSSALAM.
A. Tiến trình phát triển.
Vua Hồi giáo
cai trị Brunei, và đầu thế kỷ 16 Brunei là một quốc gia hùng mạnh cai trị toàn
bộ đảo Borneo cũng như nhiều phần của đảo Sula, và quần đảo Philippinese. Năm
1888 một Hiệp ước đặt quốc gia dưới sự bảo hộ của Anh quốc. Trong đệ II thế
chiến, Brunei bị Nhật chiếm đóng năm 1941, và được Australia đánh bật ra năm
1945. Năm 1959, Brunei trở thành đơn vị tự trị trong Liên hiệp Anh, và Anh Quốc
vẫn đảm trách về ngoại giao và quốc phòng. Năm 1962, tu chỉnh Hiến pháp cho
phép người dân được trực tiếp bầu ra Hội đồng Lập pháp mới. Brunei tuyên bố độc
lập ngày 1/1/1984. Nhiều tiền bạc từ nguồn dầu lửa của quốc gia trong những năm
gần đây đã được sử dụng một cách phung phí bởi các thành viên của gia đình
Hoàng gia Brunei.
B. Brunei ngày nay.
Hiến pháp và
Chính quyền: Hiến pháp Brunei công bố năm 1959, nhưng bị đình hoãn thi hành
nhiều phần cho đến tháng 12/1962 mới có tu chỉnh Hiến pháp về bầu cử Hội đồng
Lập pháp. Sau khi tuyên bố độc lập năm 1984, Hội đồng Nội các chính thức thay
thế Hội đồng Lập pháp. Hội đồng Nội các do vua Hồi chỉ định và chủ trì. Tháng
8/2004, tu chính Hiến pháp tái lập Hội đồng Lập pháp, nhưng 21 thành viên của
Hội đồng đều do vua Hồi lựa chọn. Mặc dù tu chỉnh Hiến pháp năm 1962, cho phép
người dân trực tiếp bầu 15/45 đại biểu tại Quốc hội mới, nhưng cho đến nay chưa
bao giờ Chính quyền Brunei đưa ra ngày bầu cử. Trong thực tế vua Hồi vừa là
nguyên thủ Quốc gia vừa cầm đầu Chính phủ.
Cư dân và
lãnh thổ: Con người: Dân số: 395.000, dưới 15 tuổi 26,1, trên 65 tuổi 3,4%. Mật
độ dân cư: 75 người/km2. Thành phố: 75,2%. Sắc tộc: Malay 66%, Chinese 11%,
người bản địa và sắc tộc khác: 19%. Ngôn ngữ: Malay (chính), English, Chinese.
Tôn giáo: Hồi giáo 67%, Phật giáo 13%, Thiên chúa giáo Lamã 10%, niềm tin bản
địa và niềm tin khác 10%. Đất đai: Tổng diện tích: 5.765 km2. Diện tích đất:
5.265 km2. Vị trí: trong khu vực Đông Nam Á, trên bờ phía bắc đảo Borneo, được
bao quanh bởi tiểu bang Sarawak của Liên bang Malaysia. Thủ đô: Bandar Seri
Begawan: 22.000 cư dân.
Chính trị và
kinh tế: Loại chính quyền: Hồi giáo độc lập. Nguyên thủ quốc gia và cầm đầu
chính phủ: Vua Hồi Sir Muda Hassanal Bolkiah Mu'izzadin Waddaulah, sinh
15/7/1946, nhậm chức 1/1/1984. Chính quyền địa phương: 4 quận. Ngân sách quốc
phòng: 395 triệu. Quân đội chính quy: 7.000. Kinh tế: Công nghiệp: khai thác và
lọc dầu lửa, khí đốt, và xây dựng. Nông sản: gạo, rau quả, và trái cây. Tài
nguyên: dầu lửa, khí đốt, và gổ. Dự trữ nhiên liệu: 1,1 tỷ thùng. Đất nông
nghiệp: 2%. Chăn nuôi: trâu bò 940, gà 15,5 triệu, dê 2.720, heo 1.800, cừu 3.000. Đánh cá: 3.100
tấn. Cung cấp điện: 3,1 tỷ Kwh. Phân bố lao động và đóng góp vào Tổng sản lượng
quốc gia: nông nghiệp 4,2%, đóng góp 1%; công nghiệp 62,8%, đóng góp 45%; dịch
vụ 33%, đóng góp 50%.
Tài chính và
an sinh: Đơn vị tiền tệ: Đồng Dollar (tháng 9/2010: 1,3=1USD). Tổng sản lượng
nội địa: 19,9 tỷ. Bình quân đầu người: 51.200. Tăng trưởng: 0,5%. Nhập khẩu: 2,6
tỷ. Bạn hàng: Singapore 30,7%, Malaysia 18,4%, Anh Quốc 7,8%, Nhật Bản 5,4%,
Trung Quốc 5,3%. Xuất khẩu: 10,7 tỷ. Bạn hàng: Japan 31,2%, South Korea 13,3%,
Australia 11,7%, Hoa Kỳ 7,9%. Du lịch: không có số liệu. Ngân sách quốc gia: 4
tỷ. Dự trữ ngoại tệ: 865,7 triệu. Dự trữ vàng: không có số liệu. Nợ nước ngoài:
không có số liệu. Giá cả tiêu thụ: không có số liệu. Vận chuyển: Đường xe lửa:
12,8km. Bằng xe hơi: 240.000 lượt xe, xe hơi cá nhân 22.100. Bằng máy bay: bay
3,8 tỷ km, sân bay 1. Hải cảng: không có số liệu. Truyền thông: Máy truyền
hình: 637/1000 cư dân. Radio: 302/1000. Điện thoại: 20,2/100. Internet: 79,8/100
người sử dụng. Sức khoẻ y tế: Tuổi thọ: nam 73,7, nữ 78,3. Sinh xuất: 18/1000
cư dân. Tử xuất: 3,3/1000. Tăng dân số tự nhiên: 1,4%. Chết trước tuổi trưởng
thành: 11,9/1000 trẻ sơ sinh. Nhiểm bệnh AIDS: 0,1%. Giáo dục: tuổi cưỡng bức
đi học 6-14, biết đọc biết viết 95%, trung học 100%, đại học 11%.
Tham gia tổ
chức quốc tế: Liên Hiệp Quốc (UN) và vài tổ chức đặc biệt phụ thuộc của nó.
Hiệp hội Đông Nam Á (ASEAN). Hợp tác Châu Á - Thái Bình Dương (APEC). Khối
thịnh vượng Anh (Commonwealth).
A. Tiến trình phát triển.
Người Malay ở
trên các đảo Philippines, họ đến đây từ Đông Nam Á. Hầu hết là thợ săn, đánh
cá, và chưa biết làm nông nghiệp. Quần đảo được khám phá bởi Magellan năm 1521,
và người Tây Ban Nha lập thành phố Manila năm 1571. Các đảo đặt tên vua Philip
II của Tây Ban Nha. Năm 1898, Tây Ban Nha chuyển nhượng Philippines cho Hoa Kỳ
với giá 20 triệu sau cuộc chiến tranh Tây Ban Nha–Hoa Kỳ. Quân đội Hoa Kỳ dập
tắt cuộc nổi dậy của du kích quân kéo dài trong 6 năm từ 1899 đến 1906. Ngày
8/12/1941, Nhật Bản tấn công Philippines và chiếm tất cả các quần đảo trong
thời chiến tranh Thế giới II. Ngày 4/7/1946, Philippines tuyên bố độc lập theo
một đạo luật thông qua bởi quốc hội Hoa Kỳ, sau đó trở thành một nước Cộng hòa.
Ferdinand Marcos được bầu làm Tổng thống tháng 9/1965 và tái bầu năm 1969.
Marcos ra sức
đàn áp các phe nhóm chính trị đối lập, và muốn kéo dài địa vị cầm quyền bằng
cách ban hành lệnh thiết quân luật tháng 9/1972. Bất chấp Hiến pháp mới năm
1973, Marcos cai trị Philippines như một nhà độc tài cho đến năm 1982. Vợ ông
ta, bà Imelda cũng đảm nhận nhiều quyền hành rộng rãi, cầm đầu bộ Kế hoạch và
Phát triển. Khủng hoảng chính trị lan rộng và lệnh thiết quân luật được gỡ bỏ
ngày 17/1/1981, nhưng Marcos vẫn còn nhiều quyền hành với cương vị Chủ tịch Hội
đồng An ninh Quốc gia. Tháng 6/1981, ông ta được tái bầu một nhiệm kỳ Tổng
thống mới 6 năm, trong sự tẩy chay rộng rãi của phe đối lập bởi sự gian trá của
nó. Vụ ám sát nhà lãnh đạo chính trị đối lập nổi tiếng Benigno S.Aquino Jr ngày
21/8/1983, châm ngòi cho nhiều người biểu tình kêu gọi Marcos từ chức.
Ngày
16/2/1986, sau một cuộc vận động bầu cử Tổng thống gian truân giữa những lời
cáo buộc gian lận khắp nơi, Marcos thắng cử, trên đối thủ bà Corazon Aquino,
quá phụ của nhà lãnh tụ đối lập bị giết. Làn sóng chống đối có bạo loạn lại nổi
lên, ngày 25/3/1986, Marcos chạy trốn khỏi Manila. Bà Aquino trở thành Tổng
thống, mặc dù được Hoa Kỳ và nhiều quốc gia thừa nhận, bà Aquino còn gặp biết
bao thử thách: sự yếu kém về kinh tế, nạn thiếu đói khắp nơi, các cuộc nổi loạn
của Cộng sản, tín đồ Hồi giáo và ngay cả sự thờ ơ của quân đội đối với chính
quyền mới. Ngày 1/12/1989, một loạt các hoạt động bạo loạn trong nỗ lực lật đổ
chính quyền Aquino, do các sỹ quan quân đội chủ mưu, bao gồm cả những người
trung thành với Marcos. Quân bạo loạn chiếm nhiều căn cứ quân sự, đài truyền
hình và ném bom vào Dinh Tổng thống.
Bạo loạn kết
thúc nhờ quân đội chính phủ cùng với sự giúp sức của không quân Hoa Kỳ gồm cả
máy bay tối tân F-4S, sau hơn 10 ngày chiến đấu làm thiệt mạng hàng trăm người.
Có một sự chia rẽ bên trong chính quyền Aquino trong nỗ lực đòi lại 10 tỷ mỹ
kim, số tiền gia đình Marcos đã cuỗm đi từ ngân quỹ của nhà nước. Marcos chết
tháng 9/1989, nhưng vợ ông ta bà Imela bị xét xử trong một phiên tòa tại New
York về tội gian lận, và âm mưu cản trở công lý. Bà được tuyên bố vô tội, bởi
bồi thẩm đoàn ngày 4/11/1991. Tháng 5/1992, được sự hậu thuẫn của bà Aquino,
tướng Fidel Ramos đắc cử Tổng thống. Cuối năm 1992, quân đội Hoa Kỳ triệt thoái
khỏi căn cứ hải quân vịnh Subic, chấm dứt sự hiện diện của quân đội Mỹ trong
một thời gian dài tại Philippines.
Ngày
30/1/1994, chính phủ ký với tổ chức du kích Hồi giáo ly khai một thỏa hiệp
ngưng bắn nhưng bạo loạn vẫn tiếp tục. Một hiệp ước mới mở rộng quyền tự trị
của khu vực Hồi giáo trên đảo Mindanao được ký ngày 2/9/1996, chấm dứt cuộc bạo
loạn đã cướp đi 120.000 mạng sống kể từ năm 1972. Vận động như một người được
quần chúng yêu thích, Joseph (Erap) Estrada từng là diễn viên điện ảnh đắc cử
Tổng thống ngày 11/5/1998. Bị buộc tội tham nhũng và nhận hối lộ ngày
13/11/2000, tòa án tối cao Philippine bãi chức Tổng thống của Joseph. Phó tổng
thống bà Gloria Macapagal Arroyo trở thành Tổng thống. Như một phần của cuộc
chiến chống khủng bố, Hoa Kỳ đã trợ giúp quân đội Philippines tấn công vào Aabu
Sabaya sào huyệt của nhóm du kích Hồi giáo cực đoan giết chết tên cầm đầu là
Abu Sabaya ngày 21/6/2002.
Hoạt động
khủng bố lại tái diển trên đảo Mindanao trong năm 2003. Ngày 27/7/2003, khoảng
300 quân sỉ dấy loạn và chiếm một số nơi tại thủ đô Manila, nhưng bị dập tắt
không bao lâu sau đó. Tổng thống Arroyo tái đắt cử ngày 10/5/2004. Philippines
có gởi một toán quân nhỏ hổ trợ Hoa Kỳ xâm lăng Iraq, và trở về nước ngày 19/7,
trong một cuộc mặc cả để các tài xế xe tải Philippines bi phiến quân bắt làm
con tin được phóng thích. Cơn bảo nhiệt đới gây ra lụt lội và đất chuồi trong
tháng 11, và 12 giết chết 1.060 người, hơn 560 người khác mất tích, và 880.000
người tiêu tan nhà cửa. Các vụ nổ bom bạo loạn gần như xẩy ra thường xuyên ở
Philippenes. Đầu năm 2005, trận đánh lớn giữa quân chính phủ và phiến quân trên
đảo Jolo giết chết 90 người và 12.000 phải chạy khỏi nơi cư trú.
Ba vụ nổ bom
ngày 14/2 làm 130 người chết và bị thương. Đất lở trên đảo Leyte ngày
17/2/2006, giết chết 139 người và 973 người mất tích kể như chết. Tháng 2/2006,
quân đội hám phá ra một âm mưu đảo chánh, và sau đó Tổng thống Arroyo tuyên bố
tình trạng khẩn trương kéo dài 1 tuần lể. Trận cuồng phong Durian ập vào miền
trung Philippines ngày 30/11 giết chết 720 người. Cuộc bầu cử Quốc hội ngày
14/2/2007, đảng của Tổng thống Arroyo dẩn đầu với 89/211 ghế. Tại phiên xử ngày
12/9/2007, nguyên Tổng thống Estrada bị kết án tù về tội nhận 85 triệu USD tiền
hối lộ và biếu xén. Và ngày 25/10, ông được Tổng thống Arroyo đặc xá. Trận
cuồng phong Fengshen ngày 21 và 22/6/2008, giết chết 557 người và trên 90.000
người bị tiêu tan nhà cửa. Cũng có hơn 700 người chết do vụ đắm phà bởi bảo
táp.
Cơn bảo nhiệt
đới tháng 9 và 10/2009, giết chết 900 người và ảnh hưởng lên đời sống của trên
9 triệu cư dân khác. Benigno (NoyNoy) Aquino III con trai của nguyên tổng thống
Corazon Aquino (who died ngày 1/8.2009) đánh bại ứng cử viên Estrada trong cuộc
bầu cử tổng thống ngày 10/5/2010, và tuyên thệ nhậm chức ngày 30/6/2010.
B. Philippines ngày nay.
Hiến pháp và
chính quyền: Trong cuộc “trưng cầu dân ý” tháng 2/1987 có tới 78,5% cử tri chấp
nhận Hiến pháp mới. Theo đó, nguyên thủ quốc gia là Tổng thống, cũng là người
cầm đầu chính phủ, do dân bầu trực tiếp với nhiệm kỳ duy nhất 6 năm. Quốc hội
lưỡng viện. Hạ viện: có 250 đại biểu trong đó 214 do dân bầu trực tiếp trong
các khu vực bầu cử, số còn lại phân bố cho các đảng chính trị, với nhiệm kỳ 3
năm. Thượng viện: có 24 nghị sỉ cũng do dân bầu trực tiếp trên toàn quốc với
nhiệm kỳ 6 năm, cứ 3 năm bầu lại một nữa số nghị sỉ. Tháng 12/1996, khi Tổng
thống Fidel Ramos còn tại chức ông đề nghị tu chỉnh Hiến pháp cho Tổng thống
được ứng cử nhiệm kỳ thứ 2, nhưng bị Thượng viện bác bỏ với 23/24 nghị sỉ.
Cư dân và
lãnh thổ: Con người: Dân số 99.900.000, dưới 15 tuổi 34,9%, trên 65 tuổi 4,2%.
Mật độ dân cư: 335 người/km2. Thành phố: 48,7%. Sắc tộc: Tagalog 28%, Cebuano
13%, Ilocano 9%, Bisaya và Bisisaya 8%, Hiligaynon và Ilonggo 8%. Ngôn ngữ:
Philippine, English (cả hai chính), và nhiều ngôn ngữ địa phương khác. Tôn
giáo: Thiên chúa giáo La mã 81%, Tin lành giáo 9%, Hồi giáo 5%. Đất đai: Tổng
diện tích: 300.000 km2. Diện tích đất: 298.170 km2. Địa điểm: Quần đảo ngoài
khơi bờ Đông Nam Châu Á. Quốc gia láng giềng: gần nhất là Malaysia và Indonesia
phía nam. Đài Loan phía bắc. Địa thế: quốc gia gồm 7.100 đảo, chạy dài khoảng
1.769 km2 từ bắc đến nam. Khoảng 95% diện tích đất và dân số nằm trên 11 đảo
lớn, ở đó có nhiều rừng núi, ngoại trừ các bờ thụt sâu vào bên trong và một
đồng bằng trung tâm trên đảo Luzon. Thủ đô: Manila. Thành phố đông dân: Manila
11.449.000 cư dân, Davao 1.480.000, Cebu 845.000 cư dân.
Chính trị và
kinh tế: Loại chính quyền: Cộng hòa.
Nguyên thủ quốc gia và cầm đầu chính phủ: Tổng thống Benigno Aquono III, sinh 8/2/1960,
nhậm chức 30/6/2010. Chính quyền địa phương: 79 tỉnh. Ngân sách quốc phòng: 1,1
tỷ. Quân đội chính quy: 120.000. Kinh tế: Công nghiệp: dệt vải, y dược, hóa
chất, diện gia dụng, sản phẩm gỗ, và chế biến thực phẩm. Nông sản: gạo, mía
đường, bắp, dừa, thơm, và chuối. Tài nguyên: gổ, dầu lửa, nickel, hợp chất
cobalt (làm thuốc nhuộm), vàng, bạc, muối, đồng. Dự trữ nhiên liệu: 138,5 triệu
thùng. Đất nông nghiệp: 19%. Chăn nuôi: trâu bò 2,7 triệu, gà 136 triệu, dê 3,9
triệu, heo 13,3 triệu, cừu 30.000. Đánh
cá: 4,4 triệu tấn. Cung cấp điện: 57,8 tỷ Kwh. Phân bố lao động và đóng góp vào
Tổng sản lượng quốc gia: nông nghiệp 34%, đóng góp 15%; công nghiệp 15%, đóng
góp 32%; dịch vụ 51%, đóng góp 53%.
Tài chính và
an sinh: Đơn vị tiền tệ: Đồng Peso
(tháng 9/2010: 43,8=1USD). Tổng sản lượng nội địa: 324,4 tỷ. Bình quân đầu
người: 3.300. Tăng trưởng: 0,9%. Nhập khẩu: 46,4 tỷ. Bạn hàng: Nhật Bản 15,9%,
Hoa Kỳ 13,7%, Trung Quốc 10,1%, Singapore 8,9%, Taiwan 7,2%, Saudi Arabia 4,8%,
Nam Triều Tiên 4,7%, Hong Kong 4,6%, Thái Lan 4,6%. Xuất khẩu: 37,5 tỷ. Bạn
hàng: Trung Quốc 24,5%, Hoa Kỳ 15,2%, Japan 12,2%, Singapore 8,3%, Hong Kong
7,6%, Malaysia 4,4%, Hòa Lan 4%. Du lịch: 2,5 tỷ. Ngân sách quốc gia: 29,8 tỷ.
Dự trữ ngoại tệ: 24,7 tỷ. Dự trữ vàng: 4,9 triệu ozt. Nợ nước ngoài: 55,6 tỷ.
Giá cả tiêu thụ: tăng 3,2%. Vận chuyển: Đường xe lửa: 896km. Bằng xe hơi: 2,6
triệu lượt xe, xe hơi cá nhân 297.800. Bằng máy bay: bay 15,7 tỷ km, sân bay
84. Hải cảng: 4- Cebu, Manila, Iloilo, Davao. Truyền thông: Máy truyền hình:
110/1000 cư dân. Radio: 161/1000. Điện thoại: 4,5/100. Internet: 6,5/100 người
sử dụng. Sức khoẻ y tế: Tuổi thọ: nam 68,5, nữ 74,5. Sinh xuất: 25,7/1000 cư
dân. Tử xuất: 5,1/1000. Tăng dân số tự nhiên: 2,0%. Chết trước tuổi trưởng
thành: 19,9/1000 trẻ sơ sinh. Nhiểm bệnh AIDS: 0,1%. Giáo dục: tuổi cưỡng bức
đi học 6-12, biết đọc biết viết 93,6%,
trung học 77%, đại học 28%.
Tham gia tổ
chức quốc tế: Liên Hiệp Quốc (UN) và các tở chức phụ thuộc của nó như Lương
nông Thế giới (FAO), Ngân hàng Thế giới (IBRD), Lao động Thế giới (ILO), Quỹ
tiền tệ Thế giới (IMF), Hàng hải Thế giới (IMO), Y tế Thế giới (WHO), và Mậu
dịch Thế giới (WTrO). Hiệp hội Đông Nam Á (ASEAN). Hợp tác Châu Á-Thái Bình
Dương (APEC).
A. Tiến trình phát triển.
Văn minh
Hindu và Phật giáo từ India đến Indonesia cách đây gần 2000 năm, đặc biệt bám
trụ ở đảo Java. Hồi giáo theo đường biển truyền bá vào Indonesia bới các thương
nhân trong thế kỷ 15, và chiếm ưu thế trong thế kỷ 16. Hòa Lan thay thế Bồ Đào
Nha như là thế lực thương mại Âu Châu quan trọng nhất trong vùng vào thế kỷ 17.
Hoà Lan nắm quyền thống trị toàn bộ đảo Java năm 1750. Các quần đảo ngoài xa
hoàn toàn không bị chiếm cho đến đầu thế kỷ 20, khi toàn khu vực bây giờ là
Indonesia mới quy về một mối dưới quyền cai trị của một chính quyền người Hòa
Lan. Nhật Bản chiếm Indonesia năm từ năm 1942 đến 1945. Sau khi Nhật đầu hàng
đồng minh, những người theo chủ nghĩa quốc gia dưới sự lãnh đạo của Sukarno và
Hatta tuyên bố độc lập. Người Hòa Lan tái chiếm thuộc địa cũ nhưng bị chống
đối.
Sau 4 năm
đánh nhau cuối cùng Hòa Lan chuyển quyền cai trị tối cao lại cho người bản xứ
ngày 27/12/1949. Một chính quyền Cộng hòa được công khai tuyên bố ngày
17/8/1950 với vị tổng thống đầu tiên là Sukarno. Phần đất phía tây đảo New
Guinea vẫn còn nằm dưới sự kiểm soát của Hòa Lan. Năm 1957 Hòa Lan từ chối đề
nghị thương thảo trên phần đất này, Indonesia thực hiện một cuộc tấn công chiếm
phần đất Hòa Lan đang chiếm trị. Năm 1963, Liên Hiệp Quốc trao khu vực trên cho
Indonesia với cam kết của Indonesia là sẽ tổ chức một cuộc “trưng cầu dân ý”
cho cư dân trên đảo lựa chọn tương lai của mình. Năm 1969, trong một cuộc bỏ
phiếu, lãnh đạo các bộ tộc đồng ý ở lại với Indonesia bất chấp các cuộc nổi dậy
của những người chống đối. Sukarno giải tán Quốc hội năm 1960.
Năm 1963 bằng
một sắc luật quy định chức vị tổng thống sẽ tại vị suốt đời. Năm 1963, ông ta
liên minh với các chính quyền Cọng sản. Liên Xô giúp trang thiết bị cho quân
đội Indonesia thực hiện các cuộc tấn công vào Malaysia trong năm 1964 và 1965.
Đầu năm 1965, Indonesia rút ra khỏi Liên Hiệp Quốc. Tháng 8/1965 trong một nỗ
lực chiếm chính quyền, phe nhóm chính trị PKI có sự tiếp tay của nhiều sĩ quan
quân đội, thực hiện một cuộc đảo chánh. Họ giết chết 5 tướng lãnh và các sĩ
quan quân đội trung thành với chính phủ. Trung tướng Suharto chỉ huy trưởng lực
lượng trừ bị cầm đầu lực lượng chống đảo chánh, nhanh chóng dập tắt cuộc bạo
loạn. Sukarno bị buộc phải san sẻ quyền hành cho quân đội. Chính quyền tố cáo
cuộc đảo chánh là một âm mưu của đảng Cọng sản.
Có khoảng hơn
300.000 người liên quan đến cuộc bạo loạn và đảng viên Cộng sản bị giết trong
các cuộc tàn sát của quân đội. Tháng 3/1966 dưới sức ép từ quân đội và sinh
viên, Sukarno chuyển giao quyền hành cho Suharto. Suharto đặt đảng Cộng sản ra
khỏi vòng pháp luật, sa thải nhiều viên chức chính quyền và chỉ định các viên
chức mới. Suharto chấm dứt sự thù nghịch với Malaysia và đưa Indonesia tái nhập
Liên Hiệp Quốc. Tháng 2/1967, Sukarno mất dần quyền lực và Suharto trở thành
Tổng thống. Tháng 3/1968 Nghị viện Tư vấn (Quốc hội) bầu Suharto làm Tổng thống
với nhiệm kỳ 5 năm. Quốc hội tái bầu Suharto vào các năm 1973, 1978, 1983,
1988, 1993. Đến ngày 10/3/1998, khi Quốc hội tái bầu Suharto làm Tổng thống
nhiệm kỳ 5 năm lần thứ 7, lúc tình hình kinh tế xuống dốc nghiêm trọng.
Công chúng
giận dữ tập trung la ó, chống đối chế độ Suharto nhắm vào các vấn đề tham
nhũng, bè phái và gia đình trị. Việc điều chỉnh hối xuất tăng giá hàng hóa
trong tháng 5, châm ngòi cho nhiều người phản đối tập trung biểu tình đập phá
tại thủ đô Jakarta và nhiều thành phố khác. Quân đội sử dụng bạo lực đàn áp
khoảng 500 người bị giết trong cuộc bạo loạn và chống bạo loạn này. Ngày
21/5/1998, Suharto từ chức và người kế vị là Phó tổng thống của ông ta,
Bacharuddin Jusuf Habibie. Abdurrahman Wahid lãnh tụ một tổ chức Hồi giáo lớn
của Indonesia được bầu vào chức Tổng thống ngày 20/10/1999. Tháng 8/2000, dưới
sức ép từ Quốc hội, ông ta đồng ý chia xẻ quyền hành cho Phó tổng thống
Megawati Sukarnoputri, con gái của nguyên Tổng thống Sukarno.
Cáo buộc
Wahid về các tội tham nhũng và thiếu khả năng, ngày 23/7/2001, Quốc hội
Indonesia bãi chức ông ta, và Megawati trở thành người phụ nữ đầu tiên làm Tổng
thống Indonesia. Các cuộc xung đột xảy ra giữa người Hồi giáo và Thiên chúa
giáo trên đảo Maluku (Molucca) làm trên 2500 người chết từ tháng 1/1999. Thêm
vào đó, còn có 550 người tỵ nạn chạy thoát từ các cuộc đánh nhau bị chết vì
chìm phà vào ngày 29/6/2000. Bạo loạn sắc tộc ở Kalimantan, Borneo giết chết
hơn 400 người trong tháng 1/2001. Những người ly khai trong tỉnh Aceh, phía tây
bắc đảo Sumatra tái diễn các cuộc đánh nhau chống lại quân đội chính phủ kể từ
thập niên 1980 và 1990. Tháng 5/2003 khi cuộc thương thảo hoà bình gảy đổ, quân
đội Indonesia tung ra một cuộc tấn công đánh tan lực lượng ly khai tại đó.
East Timor
nguyên thựoc địa Bồ Đào Nha, tháng 12/1975 Indonesia xua quân chiếm trị cho đến
tháng 10/1999. East Timor trở thành quốc gia độc lập ngày 20/5/2002. Các điều
tra viên xác quyết những tên khủng bố Hồi giáo thuộc tổ chức khủng bố al-Qaeda
là thủ phạm trong vụ dặt bom giết chết 202 người đa số là du khách nước ngoài
tại một câu lạc bộ ở Bali ngày 12/10/2002, và 12 người tại khách sạn Marriott ở
Jakarta ngày 5/8/2003. Tháng 9/2003, giáo chủ Hồi giáo cấp tiến Abu Bakar
Bashir bị kết án 4 năm tù giam về tội khủng bố và mưu phản. Trong cuộc bầu cử
550 đại biểu Quốc hội ngày 5/4/2004, đảng Golkar giành chiến thắng chiếm 128
ghế, về nhì là đảng Tranh đấu cho Dân chủ chiếm 107 ghế. Các đảng nhỏ chia nhau
số ghế còn lại cao nhất là đảng Pháp triển 58 ghế, và thấp nhất là đảng Công lý
có 1 ghế.
Bản án Bakar
Bashir hết hạn vào tháng 3/2004, nhưng đến tháng 9/2004, ông ta vẫn còn bị giam
chờ xét xử một tội khủng bố khác. Ngày 9/9/2004, một vụ đánh bom ở bên ngoài sứ
quán Úc Đại Lợi ở Jakarta, giết chết 9 người, và làm bị thương hơn 180 người.
Trong cuộc bầu cử Tổng thống dân chủ đầu tiên ở Indonesia, Susilo Bambang
Yudhoyono một tướng lảnh đã về hưu đánh bại ứng cử viên Megawati đương kim Tổng
thống trong vòng bầu chung cuộc ngày 20/9/2004. Yudhoyono nhậm chức Tổng thống
ngày 20/10/2004. Ngày 26/12/2004, cơn địa chấn trận sóng thần Nam và Đông Nam Á
ập vào Indonesia giết chết 237.000 người, không kể khoảng 40.000 mgưòi khác mất
tích. Một trận địa chấn lớn khác ngoài khơi phiá tây bắc đảo Sumatra ngày
28/3/2005 làm 1.300 người thiệt mạng.
Trên đảo Java
trong năm 2006, một trận động đất tháng 5 giết chết 5.800 người và hơn 1,5
triệu người tiêu tan nhà cửa và thiệt hại về tài sản khoảng 3,1 tỷ Mỷ kim. Cơn
sóng thần ngày 17/7 đã cướp đi 650 sinh mạng. Sang năm 2007, trận lụt tháng
2/2007, tại thủ đô Jakarta cũng làm 54 người chết và trên 400.000 người phải
rời khỏi nơi cư trú. Hai tên cầm đầu tổ chức mạn lưới khủng bố Jemaah Islamiyah
bị bắt trong tháng 6. Cựu Tổng thống Suharto chết ngày 27/1/2008. Susilo
Bambang Yudhoyono tái đắc cử tổng thống nhiệm kỳ hai trong cuộc bầu cử ngày 8/7/2009.
Vụ ôm bom tự sát tại 2 khách sạn ở Jakarta ngày 17/7 giết chết 9 người. Ngày
17/9, cảnh sát cho hay đã hạ sát Noordin Muhammad Top người bị cáo buộc có âm
mưu tấn công khũng bố tại Jakarta gần đây.
Trận động đất
gây ra nạn đất chuồi ngày 30/9 giết chết 1.115 người, và làm hư sụp 135.000
ngôi nhà.
B. Indonesia ngày nay.
Hiến pháp và
chính quyền: Hiến pháp có hiệu lực thi hành năm 1959. Theo đó hệ thống chính
trị dựa trên sự cẩn trọng quá mức. Quốc hội có 550 đại biểu được bầu trực tiếp
từ các khu vực bầu cử, với nhiệm kỳ 5 năm. Tống thống vừa là nguyên thủ quốc
gia, vừa là người cầm đầu chính phủ, do Quốc hội bầu cũng có nhiệm kỳ 5 năm.
Ngày 10/8/2002, tu chính Hiến pháp, Tổng thống do dân bầu trực tiếp với nhiệm
kỳ 5 năm, không giới hạn nhiệm kỳ. Mặc dù Hồi giáo chiếm đa số tuyệt đối, Hiến
pháp bảo đảm các niềm tin tôn giáo khác ngoài Hồi giáo.
Cư dân và
lãnh thổ: Con người: Dân số 242.968.000,
Mật độ dân cư: 134,1 người/km2. Thành phố: 44%. Sắc tộc: Javanese 41%,
Sundanese 15%, Madurese 3%, Malay 3%. Ngôn ngữ: Bahasa-Indonesian (chính),
English, Dutch, Javanese, và ngôn ngữ sắc tộc khác. Tôn giáo: Hồi giáo 86%, Tin
lành giáo 6%, Thiên chúa giáo La mã 3%, Hindu 2%, Phật giáo 1%. Đất đai: Tổng
diện tích: 1.904.569 km2. Diện tích đất: 1.811.569 km2. Địa điểm: Vùng biển với
nhiều quần đảo phía Đông Nam đất liền Châu Á chạy dài theo đường xích đạo. Quốc
gia láng giềng: Malaysia phía bắc. Papua New Guinea phía đông. Địa thế: quốc
gia gồm 13.500 đảo (6000 có cư dân). Java một trong những nơi có mực độ cư dân
cao của thế giới, 5.178 người/km2. Sumatra, Kalimantan nằm trên đảo Borneo.
Sulawesi và West Irian, chiếm một nửa đảo New Guinea. Bangka, Billiton, Madura,
Bali, Timor đều là những đảo có nhiều cư dân. Núi và cao nguyên nằm trên các
đảo chính có khí hậu mát mẽ hơn vùng đất thấp nhiệt đới. Thủ đô: Jakarta. Thành
phố đông dân: Jakarta 9.121.000 cư dân, Surabaja 2.518.000. Bandung 2.384.000 cư
dân.
Chính trị và
kinh tế: Loại chính quyền: Cộng hòa. Nguyên thủ quốc gia và cầm đầu chính phủ:
Tổng thống Susilo Bambang Yudhoyono, sinh năm 1949, nhậm chức 20/10/2004 (tái
bầu 2009). Chính quyền địa phương: 30 tỉnh, 2 vùng đặc biệt và 1 khu vực thủ
đô. Ngân sách quốc phòng: 3,5 tỷ. Quân đội chính quy: 302.000. Kinh tế: Công
nghiệp dầu khí, hàng dệt, may mặc, đế giày, khai thác mỏ, xi măng,phân bón, gổ
đa dụng, cao su. Nông sản: gạo, củ sắn, đậu phụng, cao su, cocoa, coffee, dầu
cọ, copra. Tài nguyên: quặng nhôm, thiếc, nickel, đồng, gổ, dầu lửa, khí đốt.
Dự trữ nhiên liệu: 3,9 tỷ thùng. Đất nông nghiệp: 11%. Chăn nuôi: trâu bò 11,4
triệu, gà 1.300 triệu, dê 14,9 triệu, heo 6,8 triệu, cừu 9,9 triệu. Đánh cá:
6,9 triệu tấn. Cung cấp điện: 134,4 tỷ Kwh. Phân bố lao động và đóng góp vào
Tổng sản lượng quốc gia: nông nghiệp 42,1%, đóng góp 16%; công nghiệp 18,6%,
đóng góp 44%; dịch vụ 39%, đóng góp 39,3%.
Tài chính và
an sinh: Đơn vị tiền tệ: Đồng Rupiah (tháng 9/2010: 9.000=1USD). Tổng sản lượng
nội địa: 962,5 tỷ. Bình quân đầu người: 4.000. Tăng trưởng 4,5%. Nhập khẩu: 84,3
tỷ. Bạn hàng: Singapore 30,3%, China 11,5%, Nhật Bản 9%, Makaysia 5%, Thái Lan
4%, Australia 4%. Xuất khẩu: 119,5 tỷ. Bạn hàng: Japan 19,3%, Singapore 11,8%,
Hoa kỳ 11,5%, South Korea 7,8%, China 7,7%. Du lịch: 7,4 tỷ. Ngân sách quốc
gia: 101,8 tỷ. Dự trữ ngoại tệ: 40,5 tỷ. Dự trữ vàng: 2,3 triệu ozt. Nợ nước
ngoài: 141,5 tỷ. Giá cả tiêu thụ: tăng 6,4%. Vận chuyển: Đường xe lửa: 6.456
km. Bằng xe hơi: 5,5 triệu lượt xe, xe hơi cá nhân: 4,1 triệu. Bằng máy bay:
bay 28,4 tỷ km, sân bay 158. Hải cảng: 5- Jakarta, Surabaya, Palembang,
Semarang, Ujungpandang. Truyền thông: máy truyền hình: 143/1000 cư dân. Radio:
155/1000. Điện thoại: 14,8/100. Internet: 8,7/100 người sử dụng. Sức khoẻ y tế:
Tuổi thọ: nam 68,5, nữ 73,7. Sinh xuất: 18,5/1000 cư dân. Tử xuất: 6,3/1000.
Tăng dân số tự nhiên: 1,2%. Chết trước tuổi trưởng thành: 28,9/1000 trẻ sơ
sinh. Nhiểm bệnh AIDS: 0,2%. Giáo dục: tuổi cưỡng bức đi học 7-15, biết đọc
biết viết 92%, trung học 51%, đại học 11%.
Tham gia tổ
chức quốc tế: Liên Hiệp Quốc (UN) và các tổ chức phụ thuộc của nó. Hiệp hội
Đông Nam Á (ASEAN), Tổ chức Xuất khẩu
Dầu khí (OPEC), Hợp tác châu Á Thái Bình Dương (APEC).
11. EAST TIMOR
(TIMOR-Leste hay ĐÔNG TIMOR)
A. Tiến trình phát triển.
Bồ Đào Nha
chấm dứt cai trị Đông Timor đưa tới cuộc tranh chấp quyền binh tháng 8/1975. Và
một cuộc xâm lăng của Indonesia vào Đông Timor tháng 12. Indonesia mở rộng lãnh
thổ tới Đông Timor như là tỉnh thứ 27 năm 1976, mặc dù bị thế giới lên án. Hơn
hai thập kỷ nội chiến, đói kém, khủng bố, bức hại bởi nhà cầm quyền Indonesia
khoảng 200.000 thiệt mạng. Ngày 30/8/1999, dưới sự bảo trợ của Liên Hiệp Quốc,
một cuộc “trưng cầu dân ý”, đa số người dân Đông Timor mong muốn trở thành một
quốc gia độc lập. Sau đó lực lượng dân quân được sự hỗ trợ của Indonesia thực
hiện một cuộc khủng bố điên cuồng nhắm vào cư dân. Dưới sức ép của Liên Hiệp
Quốc chính quyền Indonesia cho phép lực lượng duy trì hòa bình quốc tế đến Đông
Timor vào tháng 9/1999.
Cơ quan quản
lý của Liên Hiệp Quốc tạm thời cai quản Đông Timor chính thức hoạt động ngày
26/10/1999. Lực lượng ủng hộ độc lập giành chiến thắng trong cuộc bầu cử Nghị
viện ngày 30/8/2001. Xanana Gusmao nguyên lãnh đạo lực lượng du kích đắc cử Tổng
thống ngày 14/4/2002. Đông Timor trở thành quốc gia độc lập ngày 20/5/2002 và
gia nhập Liên Hiệp Quốc ngày 27/9/2002. Cuộc tranh chấp trên một vùng biển có
nhiều dầu khí phía đông East Timor với Australia đã được giải quyết trong tháng
8/2004. Australia và các quốc gia khác dẳ gởi lực lượng đến trấn áp làn sóng
nỗi dậy chiếm Dili tháng 5/2006. Cuộc bầu cử Tổng thống vòng đầu ngày 9/4/2007,
có 8 ứng cử viên tranh cử, Francisco Guterres ứng viên đảng đương quyền
FRETILIN về đầu với 27,9% phiếu bầu, về nhì ứng viên độc lập Ramos-Horta với
21,8%.
Tại vòng bầu
chung cuộc ngày 8/5, Ramos-Horta giành chiến thắng với 69,3% phiếu bầu, đánh
bại đối thủ Guterres chỉ chiếm 30,7%. Và, tại cuộc bầu cử 65 đại biểu Quốc hội
ngày 30/6/2007, Liên đảng FRETILIN dẫn đầu với 21 ghế, về nhì Liên đảng CNRT
chiếm 18 ghế, các đảng nhỏ chia nhau số ghế còn lại, cao nhất là Liên đảng
C-ASTD/PSD chiếm 11 ghế, và có 2 đảng, mỗi đảng chỉ chiếm 1 ghế. Khủng hoảng
chính trị nổ ra sau khi Ramos-Horta chọn Xanana Gusmao làm Thủ tướng. Sáng ngày
11/2/2008, Tổng thống Ramos-Horta bị quân đảo chánh bắn trọng thương tại tư gia
phải đưa sang một bệnh viện Úc điều trị. Lảnh tụ đảo chánh là Thiếu tá Alfredo
Reinado tử thương. Quân đảo chánh cũng tấn công đoàn xe của Thủ tướng Xanana
Gusmao, nhưng không thành công, Gusmao thoát nạn.
B. Đông Timor ngày nay.
Hiến pháp và
chính quyền: Hiến pháp công bố năm 2002
chỉ rõ nguyên thủ quốc gia là Tổng thống do dân bầu trực tiếp với nhiệm kỳ 5
năm và tại chức không quá 2 nhiệm kỳ. Tổng thống bổ nhiệm Thủ tướng. Quốc hội
chỉ có 1 viện cũng do dân bầu trực tiếp tại các khu vực bầu cử với nhiệm kỳ 5
năm. Đại biểu Quốc hội nhiệm kỳ đầu tiên sau khi độc lập là 88. Nhưng kể từ
nhiệm kỳ tế tiếp năm 2007, số ghế đại biểu Quốc hội giảm xuống còn lại tối
thiểu là 52 và tối đa kà 65 đại biểu.
Cư dân và
lãnh thổ: Con người: Dân số: 1.154.000, dưới 15 tuổi 34,2%, trên 65 tuổi 3,5.
Mật độ dân cư: 77,6 người/km2. Thành phố: 27,7%. Sắc tộc: Austronesian, Papuan.
Ngôn ngữ: Portuguesse, Tetum (cả hai chính), Indonesian, English, và các ngôn
ngữ sắc tộc khác. Tôn giáo: Thiên chúa giáo La mã 93%, Hồi giáo 4%, Tin lành
giáo 3%. Đất đai: Tổng diện tích: 14.874 km2. Diện tích đất: 14.874 km2. Địa
điểm: Một nửa phía Đông đảo Timor, nằm ở Tây nam Thái Bình Dương. Quốc gia láng
giềng: Indonesia phía tây. Địa thế: thế đất gồ ghề, lởm chởm. Điểm cao nhất
9.721 ft, tại núi Ramelau. Thủ đô: Dili với 166.000 cư dân.
Chính trị và
kinh tế: Loại chính quyền: Cộng hòa. Nguyên thủ quốc gia: Tổng thống
Ramos-Horta, sinh 26/12/1949, nhậm chức 20/5/2007. Thủ tướng chính phủ: Anana
Gusmao, sinh 20/6/1946, nhậm chức 8/8/2007. Chính quyền địa phương: 13 khu vực.
Ngân sách quốc phòng: không có số liệu. Quân đội chính quy: 1.332. Kinh tế:
Công nghiệp: may mặc, in ấn, xà phòng, hàng thủ công mỷ nghệ. Nông sản: cà phê,
gạo, bắp, củ sắn, khoai ngọt. Tài nguyên: vàng, dầu lửa, khí đốt, đá cẩm thạch,
manganese. Dự trử nhiên liệu: không có số liệu. Đất nông nghiệp: 8%. Chăn nuôi:
trâu bò 171.000, gà 2,2 triệu, dê 80.000, heo 346.000, cừu 25.000. Đánh cá: 350
tấn. Cung cấp diện: không có số liệu. Phân bố lao động và đóng góp vào Tổng sản
lượng quốc gia: nông nghiệp 90%, đóng góp 25%, công nghiệp 5%, đóng góp 17%, dịch
vụ 5%, đóng góp 57%.
Tài chính và
an sinh: Đơn vị tiền tệ: Đô la Mỹ (USD). Tổng sản lượng nội địa: 2,7 tỷ. Bình
quân đầu người: 2400. Tăng trưởng: 7,5%. Nhập khẩu: 202 triệu. Bạn hàng: không
có số liệu. Xuất khẩu: 10 triệu. Bạn hàng: Indonesia 100%. Du lịch: không có số
liệu. Ngân sách quốc gia: 309 triệu. Dự trử ngoại tệ: 159,3 triệu. Dự trử vàng:
không có số liệu. Nợ nước ngoài: không có số liệu. Giá cả tiêu thụ: tăng 0,7%. Vận
chuyển: Đường xe lửa: không có số liệu. Bằng xe hơi: không có số liệu. Bằng máy
bay: không có số liệu, sân bay 3. Hải cảng: 1- Dili. Truyền thông: máy Truyền
hình: không có số liệu. Radio: không có số liệu, Điện thoại: 0,2/100. Internet:
0,2/100 người sử dụng. Sức khoẻ y tế: Tuổi thọ: nam 65,2, nử 70,1. Sinh xuất: 25,9/1000
cư dân. Tử xuất: 5,9/1000. Tăng dân số tự nhiên: 2%. Chết trước tuổi trưởng
thành: 39,3/1000 trẻ sơ sinh. Nhiểm bệnh AIDS: không có số liệu. Giáo dục: tuổi
cưởng bức đi học 7-14, biết đọc biết viết 58,6%, trung học và đại học không có
số liệu.
Tham gia tổ
chức quốc tế: Liên hiệp quốc (UN), và các tổ chức phụ thuộc của ó như: Lương
nông Thế giới (FAO), Ngân hàng Thế giới (IBRD), Lao động Thế giới (ILO), Quỷ
Tiền tệ Thế giới (MF), Hàng hải Thế giới (IMO), và Y tế Thế giới (WHO).
5 quốc gia
khu vực Đông Á chiếm 10.231.114 km2 diện tích đất, và 1.552.362.000 cư dân.
Quốc gia lớn nhất là Trung Quốc chiếm 9.596.961 km2 và quốc gia nhỏ nhất là
Taiwan chỉ có 35.980 km2. Trung Quốc có trên 1.330 triệu cư dân, Nhật Bản trên
120 triệu, nhưng Bắc Triều Tiên và Đài Loan mỗi nước chỉ trên 20 triệu cư dân.
Trung quốc, Bắc Triều Tiên đều theo chủ nghĩa vô thần. Nam Triều Tiên, Nhật
Bản, Đài Loan, theo Phật giáo, Thiên chúa giáo, Đạo Shinto, Khổng giáo và Lão
giáo khá phổ biến trên dưới 80% cư dân. Về thể chế chính trị 1 quốc gia theo
chế độ Quân chủ lập hiến, 2 nước theo chế độ Cộng sản, và 2 nước theo chế độ
Cộng hòa. 5 quốc gia trong khu vực gồm Trung Quốc, Bắc Triều Tiên, Nam Triều
Tiên, Nhật Bản, và Đài loan.
A. Tiến trình phát triển.
Vẫn còn một
số sinh vật giống người khác nhau sống từ hàng ngàn năm trước đây được tìm thấy
trong nhiều nơi ở Trung Quốc. Những người định cư làm nông nghiệp kiểu thời kỳ
đồ đá, sống rãi rác ở bình nguyên sông Huang (Yellow) từ khoảng 5000 Trước công
nguyên (TCN). Ngôn ngữ nghệ thuật, tôn giáo của họ là những chỉ dấu cơ bản cho
nền văn minh Trung Quốc sau đó. Kỷ thuật luyện kim thời đồ đồng đạt tới tột
đỉnh. Chữ viết tượng hình giống như chữ Trung Quốc hiện nay, đã được sử dụng từ
năm 1500 đến 1000 năm TCN dưới thời nhà
Shang (Thương), triều đại cai trị phần lớn phía bắc Trung Quốc. Một chuỗi các
triều đại kế tiếp và các cuộc chiến tranh giữa các vương quốc thống trị Trung
Quốc khoảng 3000 năm sau đó. Họ mở rộng chính trị và bành trướng văn hóa Trung
Quốc về phía nam và phía tây.
Họ cũng phát
triển kỷ thuật và canh tân xã hội như là một thời thịnh trị trong lịch sử Trung
Quốc. Sự cai trị của người nước ngoài như Mông Cổ dưới triều nhà Nguyên (Yuan)
từ 1271-1368 và Mản Châu dưới triều Thanh (Ch'ing) từ 1644-1911 đã không thay
đổi được nền tảng văn hoá Trung Quốc. Sự trì trệ yếu kém của Trung Quốc trong
thế kỷ 19, khiến nó phải chịu nhiều sức ép cả bên trong lẫn bên ngoài. Các cuộc
nổi dậy khắp nơi giết chết 10 triệu người. Nga, Nhật, Anh và các thế lực khác
đã nắm quyền “chính trị và kinh tế” trên nhiều phần của đất nước. Ngày
1/1/1912, Trung Quốc trở thành một nước Cộng hòa thống nhất sau cuộc khởi nghĩa
tại Wuchang bởi bác sĩ Tôn Dật Tiên (Dr.Sun Yat-sen) sáng lập viên đảng
Kuomintang (Quốc Dân Đảng).
Năm 1928 đảng
Kuomintang lãnh đạo bởi Tưởng Giới Thạch (Chiang Kai-shek) đã thành công trên
danh nghĩa tái thống nhất Trung Quốc. Đồng thời, ông ta cũng tiến hành một cuộc
tranh trừng đẫm máu nhắm vào những người Cộng sản ở mọi cấp. Từ đó nó tạo ra
một sự thù hận giữa hai phe đảng chính trị Quốc gia và Cộng sản kéo dài trong
nhiều thập kỷ. Trên 50 năm (1894-1945). Trung Quốc vướng phải nhiều cuộc tranh
chấp với Nhật Bản. Do ở thế yếu nên năm 1895, Trung Quốc phải nhường quyền cai
trị Triều Tiên, Đài Loan và một số khu vực khác nhau cho Nhật Bản. Ngày
18/9/1931, Nhật Bản xâm lăng các tỉnh đông bắc (Manchuria) của Trung Quốc, và
dựng lên một chính quyền bù nhìn gọi là Manchukuo. Năm 1933, tỉnh biên giới
Jehol bị cắt ra khỏi Trung Quốc làm thành một nước đệm.
Ngày 7/7/1937
biết được sự mâu thuẫn “Quốc-Cộng” trong nội địa Trung Quốc, Nhật Bản xâm lăng
và chiếm toàn bộ phía bắc Trung Quốc. Ngày 20/11/1937, chính quyền Trung Quốc
triệt thoái khỏi thủ đô Nam Kinh (Nanjing) đến Trùng Khánh (Chungkinh). Ngày
13/12/1937, quân Nhật tiến chiếm Nam Kinh. Từ năm 1939 chiến tranh Nhật
Bản-Trung Quốc (1939-1945) trở thành một phần của chiến tranh Thế giới II mở
rộng. Sau khi bị đánh bại trong chiến tranh thế giới II, Nhật Bản từ bỏ tất cả
các phần đất xâm chiếm. Và nội chiến liên quan đến chính kiến “Quốc gia-Cộng
sản” và các phe nhóm khác lại bắt đầu. Đến năm 1949 Cộng sản nắm quyền thống
trị toàn bộ lãnh thổ. Ngày 8/12/1949 chính quyền Quốc gia một lần nữa phải
triệt thoái khỏi nội địa, chạy ra đảo Taiwan.
Hội nghị tư
vấn chính trị nhân dân nhóm họp ngày 21/9/1949 và chính quyền Cộng hòa nhân dân
Trung Quốc chính thức thành lập ngày 1/10/1949 tại Bắc kinh dưới sự lãnh đạo
của Mao Trạch Đông (Mao Zedông). Trung Quốc và Liên bang Xô viết ký một hiệp
ước đồng minh thân thiện, và giúp đỡ hỗ tương ngày 15/2/1950. Hoa Kỳ không thừa
nhận chính quyền mới Cộng hoà Nhân dân Trung Quốc. Ngày 26/11/1950 Cộng hòa
Nhân dân Trung Quốc gởi quân đội giúp Cộng sản Bắc Triều Tiên đánh chiếm Nam
Triều Tiên (1950-1953) nhưng không thành công. Sau một thời kỳ củng cố ban đầu
1949-1952, các tổ chức công nghiệp, nông nghiệp, kinh tế và xã hội bị cưỡng bức
theo một mô hình dựa vào ý kiến của Mao Trạch Đông gọi là “tư tưởng Mao chủ
tịch”.
Tuy nhiên,
những thay đổi mạnh mẽ trong chính sách và các cuộc nổi loạn của bè đảng theo
chủ nghĩa quốc gia đã làm trở ngại trong phát triển kinh tế. Năm 1957, Mao nhìn
nhận có khoảng 800.000 người bị hành quyết trong thời gian 1949-1954. Những
người đối lập cho rằng con số thực sự bị giết còn cao hơn nhiều lần. Thời kỳ
“đại nhảy vọt” 1958-1960 cố gắng thực hiện một tốc độ phát triển kinh tế nhanh
thông qua một lượng lao động tập trung đông trên các cái gọi là “công xã nông
thôn” rộng lớn. Chương trình này tạo ra những sự chống đối và sau đó phải bãi
bỏ. Trong thập niên 1960, quan hệ với Liên Xô trở nên xấu đi với những sự bất
đồng về lý luận Cộng sản về vai trò lãnh đạo cộng sản thế giới và về cả biên
giới giữa hai nước. Liên Xô hủy bỏ các hiệp ước trợ giúp kinh tế, kỷ thuật.
Và Trung quốc
cùng với Albania tung ra chiêu đòn tuyên truyền chống lại Liên Xô, cho rằng
Liên xô đi trệch lý luận “cộng sản thuần khiết", rằng Liên Xô đã theo
"chủ nghĩa xét lại". Trung Quốc chỉ trích chính sách của Liên Xô
"cùng sống chung hòa bình" với phương Tây, ký Hiệp ước cấm thử nghiệm
vũ khí hạt nhân với Hoa Kỳ và với Anh Quốc. Trung Quốc còn tố cáo Liên Xô phản
bội lý tưởng Cộng sản chủ nghĩa, toa rập với phương Tây mưu đồ chống lại Trung
Quốc. Thời kỳ "đại cách mạng văn hóa vô sản" trong thập niên 1960, là
một nỗ lực chống lại các thế lực họ gọi là “chủ nghĩa quan liêu”, và “chủ nghĩa
thực dụng” hướng tới một giai đoạn mới của nguyên lý cách mạng. Các cuộc thanh
trừng diễn ra khắp nơi dưới danh nghĩa cách mạng triệt để.
Nó tố cáo các
viên chức chính quyền và lãnh đạo cao cấp trong đảng không thực hiện đầy đủ các
nguyên tắc cộng sản và cách chức họ khỏi vị trí lãnh đạo. Sinh viên và thành
niên lập ra các tổ chức bán quân sự gọi là "Vệ binh đỏ". Họ tuần hành
trong các thành phố chính, chống lại tất cả những ai được họ gán cho là phản cách
mạng, và chống lại chủ nghĩa Mao. Các trường học đóng cửa từ năm 1966 đến 1970,
và hệ thống giáo dục hoàn toàn bị phá vỡ. Vệ binh đỏ chiếm chính quyền nhiều
thành phố và tỉnh. Và sau đó, cách mạng lại vỡ ra các cuộc tranh giành quyền
lực giữa họ với nhau. Mao Trạch Đông phải kêu gọi quân đội vản hồi trật tự. Đến
năm 1969, đảng Cộng sản, chính quyền, và hệ thống giáo dục mới bắt đầu tái hoạt
động, nhưng mâu thuẫn giữa cách mạng và ôn hòa trong đảng vẫn còn tiếp tục.
Ngày
25/10/1971, Đại hội đồng Liên Hiệp Quốc trục xuất chính quyền Đài Loan ra khỏi
Liên Hiệp Quốc và chuyển giao ghế đại diện cho Cộng hòa Nhân dân Trung Quốc.
Hoa Kỳ ủng hộ quyết định thâu nhận chính phủ Trung Quốc, nhưng phản đối việc
trục xuất Đài Loan. Ngày 21-28/2/1972, Tổng thống Richard Nixon thăm viếng
Trung Quốc theo lời mời của Thủ tướng Chu Ân Lai (Zhou EnLai), chấm dứt nhiều
năm thù địch giữa hai nước. Tháng 5 và tháng 6/1973, Trung Quốc và Hoa Kỳ mở
văn phòng liên lạc tại thủ đô của hai bên. Ngày 15/12/1978, Hoa Kỳ chính thức thừa
nhận Cộng hòa Nhân dân Trung Quốc như là một chính quyền hợp pháp duy nhất của
Trung Quốc. Quan hệ ngoại giao giữa hai quốc gia được thành lập ngày 1/1/1979.
Ngày
9/9/1976, Mao Trạch Đông chết, Phó thủ tướng Đặng Tiểu Bình (Deng Xiaoping)
củng cố thế lực, nối tiếp Mao Trạch Đông như là nhà "lãnh đạo tối
cao" của Trung Quốc. Tập đoàn cai trị mới thay đổi một số chủ trương của
Mao trong các lĩnh vực văn hóa, giáo dục, công nghiệp và tìm kiếm các mối quan
hệ thân thiện với các quốc gia không Cộng sản. Trong khi đánh giá lại chủ
trương của Mao, vợ ông ta Giang Thanh (Jiang Qing), và những người cực tả trong
cách mạng văn hóa hồi thập niên 1960, bị truy tố hình sự. Và tại phiên tòa ngày
25/1/1981, cả 4 người đều bị kết án tù giam. Giữa thập niên 1980, Trung Quốc
ban hành nhiều luật lệ cải cách kinh tế sâu rộng hơn, cổ vũ hướng đến kinh tế
thị trường, khuyến khích tư nhân và đầu tư nước ngoài tham gia hoạt động kinh
doanh.
Ngày
4/5/1989, khoảng 100 ngàn sinh viên và công nhân xuống đường biểu tình tại
quảng trường Thiên An Môn đòi hỏi dân chủ, và cải cách chính trị. Lúc nầy, nhà
lãnh đạo Liên Xô Gorbachev có cuộc thăm viếng Trung Quốc (ngày 15-18/5). Đây là
cuộc thăm viếng, và họp thượng đỉnh đầu tiên giữa hai nhà lãnh đạo Trung Quốc
và Liên Xô kể từ năm 1959. Sự bất ổn tiếp tục lan rộng và ngày 20/5, Trung Quốc
ban hành lệnh thiết quân luật. Nhưng đoàn biểu tình vẫn bám trụ tại Quảng
trường, và có nhiều người từ các nơi khác về tăng cường lực lượng. Ngày 3-4/6,
Trung Quốc đưa quân đội đến đàn áp. Tiếng gầm thét của xe tăng, đại bác, cùng
với tiếng kêu gào của những người biểu tình vang dậy khắp cả Quảng trường. Có
khoảng 5000 người chết, 10.000 người bị thương, và hàng trăm sinh viên, công
nhân bị bắt.
Trung Quốc là
một trong những quốc gia có nền kinh tế phát triển nhanh nhất thế giới ở thập
niên 1990. Dù vậy, các vụ vi phạm nhân quyền vẫn cứ tiếp tục không có biểu hiện
sút giảm. Hoa Kỳ ban cấp quy chế “tối huệ quốc” nhập khẩu hàng hóa từ Trung
Quốc, tái tục nhiều lần. Ngày 19/2/1997, Đăng Tiểu Bình chết ông ta chọn người
thừa kế mình là Giang Trạch Dân (Jiang Zemin) nắm quyền cai trị với cương vị
Chủ tịch nước. Chủ tịch Giang Trạch Dân lần đầu tiên xuất ngoại thăm viếng Hoa
Kỳ từ ngày 26/10 đến 3/11/1997, và Tổng thống Mỹ Bill Clinton thăm Trung Quốc
từ ngày 25/6 đến 3/7/1998. Với sự thỏa thuận của các nước liên quan, ngày
1/7/1997, Anh Quốc trả Hồng Kông trở lại cho Trung Quốc. Và ngày 20/12/1999, Bồ
Đào Nha cũng trả Macao về cho Trung Quốc.
Trận lụt
trong tháng 7 và tháng 8 giết chết ít nhất 3000 người và làm thiệt hại tài sản
lên tới 20 tỷ mỹ kim. Vào ngày 7/5/1999, khối Liên phòng Bắc Đại Tây Dương gọi
tắt là NATO thả bom trúng vào tòa Đại sứ Trung Quốc ở Belgrade, Yugoslavia giết
chết 3 người và làm bị thương 27 người. Ngày 30/7, Hoa Kỳ đồng ý trả 4,5 triệu
USD bồi thường cho các nạn nhân và gia đình họ. Và ngày 16/12, trả 28 triệu USD
bồi thường thiệt thiệt hại vật chất cho sứ quán Trung Quốc. Ngày 22/7/1999,
Trung Quốc ra lệnh cấm giáo phái Pháp luân công (Falun Gong) hoạt động, sau khi
nó đã truyền bá ra nhiều nơi bất hợp pháp. Ngày 15/11/1999, Hoa Kỳ và Trung
Quốc ký hiệp ước thương mại toàn diện, và việc bình thường hóa quan hệ thương
mại với Trung Quốc đã được Quốc hội Hoa Kỳ chấp thuận ngày 19/9/2000.
Sau một cuộc
va chạm trên không vào ngày 1/4/2001, một máy bay phản lực Trung Quốc rơi xuống
biển phía nam Trung Quốc, và một máy bay thám thính Hoa Kỳ phải đáp khẩn cấp
trên đảo Hải Nam (Hainan Island). Ngày 12/4/2001, tất cả 24 nhân viên phi hành
đoàn trên máy bay Hoa Kỳ được trả tự do. Ngày 13/7 thành phố Bắc Kinh của Trung
Quốc được chọn đăng cai tổ chức Thế vận hội mùa hè năm 2008. Ngày 16/7, Trung
Quốc và Nga ký hiệp ước thân thiện 20 năm. Tổng bí thư đảng kiêm Chủ tịch nước
Giang Trạch Dân hội kiến với Tổng thống Bush tại Thượng Hải (Shanghai), nhân
hội nghị thượng đỉnh của tổ chức hợp tác kinh tế Châu Á-Thái Bình Dương (APEC),
nhóm họp ngày 20 và 21/10/2001. Ngày 6/9/2002, Trung Quốc sản xuất thuốc đặc
trị chống HIV, nhằm giải quyết bệnh AIDS đang phát triển nhanh trong nội địa.
Trung Quốc được
thâu nhận vào tổ chức Mậu dịch Thế giới (WTrO) vào ngày 10/11/2002, bất chấp
nhiều sự phản đối từ các tổ chức lao động, và nhân quyền. Ngày 15/11/2002, tại
Đại hội đảng Cộng sản lần thứ 16, Hồ Cẩm Đào (Hu Jintao) được bầu làm Tổng Bí
thư đảng, và ngày 15/3/2003, tại kỳ họp lần thứ 10 của Quốc hội cũng bầu ông ta
làm Chủ tịch nước, khi Giang Trạch Dân từ chức Chủ tịch Quân ủy trung ương. Đến
giửa năm 2003, bệnh dịch cúm SARS xuất hiện từ cuối năm 2002 đã giết chết 349
người bên trong nội địa Trung Quốc. Tháng 8/2003, Trung Quốc tự nhận làm nước
chủ nhà đứng ra tổ chức Hội nghị “sáu nước” Bắc Triều Tiên, Nam Triều Tiên, Hoa
Kỳ, Liên bang Nga, Nhật Bản và Trung Quốc bàn thảo về chương trình sản xuất vủ
khí hạt nhân của Bắc Triều Tiên.
Với việc
phóng đi và quay trở về an toàn của con tàu vủ trụ Shenzhọu 5, Trung Quốc trở
thành quốc gia thứ ba sau Hoa Kỳ và Liên Xô đưa người vào không gian. Ngày
23/12/2003, một vụ nổ lò hơi (gas) ở Chongqing làm 233 thiệt mạng. Trận lụt mùa
hè năm 2004, đã giết chết hơn 1000 người và làm thiệt hại trên 8 tỷ Mỹ kim. Chủ
tịch Hồ Cẩm Đào được tăng thêm quyền hạn khi ông ta trở thành Chủ tịch Quân ủy
Trung ương ngày 19/9. Theo báo cáo của Liên Hiệp Quốc có khoảng 650.000 người
Trung Quốc nhiểm HIV/AIDS trong năm 2005, ít hơn ước tính trước đó. Cơn bảo
nhiệt đới Bilis ập vào Trung Quốc, gây nên nạn lụt và đất chuồi ngày 14/7/2006,
giết chết 612 người và làm thiệt hại tài sản hơn 3,3 tỷ Mỹ kim. Các báo cáo
công nghiệp năm 2007, cho rằng Trung Quốc đã sản xuất và xuất khẩu nhiều mặt hàng
kém chất lượng, có chất độc hại như thú nhồi bông, kem đánh răng, và đồ chơi
trẻ em.
Ngày
10/7/2007, thi hành bản án tử hình đối với Zheng Xiaoyu, người cầm đầu ngành
thực phẩm và dược phẩm can tội nhận hối lộ và thiếu tinh thần trách nhiệm. Giữa
thàng 2/2008, thời tiết lạnh giá và cơn bảo tuyết thất thường đã cướp đi hơn
100 mạng sống và làm thiệt hại tài sản khoảng 15 tỷ Mỹ kim. Tại cuộc họp Nghị
viện Nhân dân ngày 15-16/3, Hồ Cẩm Đào được tái bầu vào chức Chủ tịch nước, và
Ôn Gia Bảo vào chức Thủ tướng chính phủ. Ngày 12/5/2008, động đất ở tỉnh Tứ
Xuyên làm 69.226 người chết, 17.923 người mất tích, 364.000 bị thương và trên 5
triệu người sống trong cảnh màn trời chiếu đất. Thế Vận Hội lần thứ 29 diển ra
ở Bắc Kinh từ ngày 8/8 đến ngày 24/8/2008, chủ tịch Ủy ban Thế vận Quốc tế
(IOC) Jacques Rogge khen ngợi nước chủ nhà đã tổ chức thành công tốt đẹp.
Ngày 8/9, một
hồ chứa quặng sắt phế thải lớn bị vỡ ập xuống thị trấn Taoshi tỉnh Sơn Tây làm
chết 128 người, viên tỉnh trưởng bị cách chức. Ngày 26/10/2008, nhà cầm quyền
Hương Cảng tuyên bố họ đã phát giác ra “độc chất melamine” trong trứng gà của
tổ hợp Hanwei, Trung Quốc. Melamines là một hóa chất rẽ tiền, nhưng giàu đạm
nhờ thành phần nitrogen cao. Các nhà chăn nuôi pha trộn nó vào thức ăn cho gà tăng
trọng nhanh mà cơ quan kiểm phẩm không thể nào phát hiện được. Sau hai tháng
1-2/2010 điều tra, chuyên gia máy Computer phương tây cho rằng các tin tặc
(hackers) tại hai trường học Trung Quốc đã tấn công mạng Google và ít nhất 30
mạng khác. Trận động đất ngày 14/4 tại phía Tây Bắc Trung Quốc làm hơn 2.200
người thiệt mạng.
Chính quyền
Trung Quốc tỏ ra giận dữ khi ông Liu
Siaobo, nhà tranh đấu cho nhân quyền bị Trung Quốc kết án 11 năm tù hồi tháng
12/2009, được trao giải thưởng Nobel hòa bình vào ngày 8/10/2010. Mặc dù đầu tư
nhiều cho việc tạo ra năng lượng mới như, năng lượng mặt trời, năng lượng gió,
việc khai thác hầm mỏ bừa bải, kể cả khai thác lậu đã để lại những tác hại lớn
lao cho môi trường. Phát triển kinh tế nhanh trong hai năm 2009-2010 đã đưa
kinh tế Trung Quốc vượt qua nền kinh tế Nhật Bản, đứng hàng thứ hai của thế
giới, chỉ sau Hoa Kỳ.
Lưu ý:
1. Mãn Châu
(Manchuria) quê hương của sắc tộc Manchus, sắc tộc từng cai trị Trung Quốc từ
năm 1644 đến 1911. Mãn Châu cũng là nơi hàng triệu người Trung Quốc đến đây
định cư lập nghiệp trong thế kỷ 20. Người Nhật cai trị Mãn Châu từ năm
1931-1945 và khu vực đạt tới trình độ công nghiệp hóa. Hiện nay vùng này chia
thành 3 tỉnh phía Đông Bắc Trung Quốc là tỉnh HeilongJiang, Jilin, và Liaoning.
2. Quảng Châu
(Guangxi Zhuang) nằm phía Đông Nam Trung Quốc. Phía bắc là 2 tỉnh Guizhou, và
Hunan. Phía đông nam tỉnh Quảng đông. Phía tây nam giáp Việt Nam. và phía tây
là tỉnh Yunnan. Quảng Châu là nơi sản xuất gạo lớn nhờ các lưu vực sông có đất
màu mở, và cùng là nơi sản xuất các sản phẩm rừng có giá trị. Dân số (2000):
44,8 triệu.
3. Bên trong
nội địa Mông Cổ (Inner Mongolia) nơi
chiếm trị bởi Cộng hòa Nhân dân Trung Quốc. Các đường biên giới của nó thường
chịu nhiều thay đổi, đạt tới sự mở rộng lớn nhất năm 1956, và điều chỉnh trả
bớt năm 1959. Hiện nay vùng này chiếm 1.176.959 km2 diện tích, trong đó cư dân
Mông Cổ chiếm thiểu số và người định cư Trung Quốc gấp 10 lần nhiều hơn. Dân số
(2000): 23,76 triệu. Thủ đô: Hohhot.
4. Ningxia
Hui phía Bắc của miền trung Trung Quốc
có diện tích 155.340 km2. Dân số (2000): 5,62 triệu. Thủ đô: Yinchuan. Nó nằm
trên cao nguyên nội địa Mông Cổ là một vùng bán nhiệt đới với sa mạc ở phía
bắc. Sông Yellow (Huang He) chảy băng qua phía bắc cung cấp nước cho việc tưới
tiêu ruộng đồng. Các mỏ than đang được khai thác ở phía đông. Công nghiệp chưa
được phát triển, và chỉ có một đường xe lửa tới được trong vùng. Cư dân ở đây
hầu hết là người Hán, và người Hui (Hồi giáo Trung Quốc) chiếm khoảng 1/3 dân
số. Dân số trong vùng tăng cực nhanh từ 1959-1980. Đến nay thì tương đối ổn
định.
5. XinJiang
Uygur là một vùng nằm ở Trung Á chiếm
1.646.345 km2. Dân số (2000): 19,25 triệu. 75% là người Hồi giáo-Thổ Nhĩ Kỳ
(sắc tộc Uygur). Người Trung Quốc gia tăng nhanh chóng trong những năm gần đây.
Nó là một vùng giàu trữ lượng hầm mỏ mang tính chiến lược. Sắc tộc Uygur đòi ly
khai và Trung Quốc gởi quân đến trấn áp phong trào này, một phong trào mà chính
quyền Bắc Kinh xem như là những tên khủng bố. Thủ đô: thành phố Urumqi.
6. Tây Tạng
(Tibet) chiếm 1.221.231 km2, nhưng là một vùng cao nguyên núi non trùng điệp,
cư dân thưa thớt. Hai dảy núi nổi tiếng là Himalayas nằm ở phía Nam và Kunluns
nằm ở phía Bắc. Núi cao chạy dài nối với Ấn Độ và Nepal, có nhiều đường đi vào
phần đất Trung Quốc. Độ cao trung bình 15.000ft, tại Jiachan cao 15.870ft là
thị trấn có cư dân sinh sống, người ta tin rằng đây là điểm cao nhất trái đất
có người ở. Thủ đô: thành phố Lhasa. Dân số (2000): 2,62 triệu, trong đó khoảng
500 ngàn là người Trung Quốc. Và có 4 triệu người Tây Tạng khác tạo thành đa số
cư dân trong khu vực rộng lớn bên cạnh đó. Trong một thời gian dài nó đã sát
nhập vào Trung Quốc. Nền nông nghiệp trong khu vực còn sơ khai, theo truyền
thống. Trung Quốc cai trị toàn bộ Tibet từ thế kỷ 18, nhưng năm 1911, thì Tây
Tạng tuyên bố độc lập.
Năm 1951,
Trung Quốc tuyên bố tái lập cai trị và một chính quyền Cộng sản được dựng lên
năm 1953, xóa bỏ phương cách cai trị theo kiểu thần quyền của Phật giáo
Lamaist. Chế độ nông nô bị bãi bỏ, nhưng toàn bộ đất đai vẫn còn tập thể hóa.
Năm 1956, một cuộc nổi dậy của người Tây Tạng chống lại Trung Quốc trong nội
địa lan tới Tây Tạng năm 1959. Cuộc bạo loạn bị đàn áp bởi quân đội Trung Quốc
và cuộc nổi dậy hầu như bị dập tắt hoàn toàn. Đức Dalai Lama và khoảng 100 ngàn
người Tây Tạng chạy trốn sang Ấn Độ.
7. Hồng Kông: Hồng Kông (Xianggang) nằm tại cửa sông Zhu
Jiang phía Đông Nam Trung Quốc cách Canton (Guangzhou) 144 km về phía nam, từng
là khu vực phụ thuộc Anh Quốc từ năm
1842 cho đến 1/7/1997. Ngay sau đó nó trở thành đặc khu hành chánh của Trung Quốc. Đảo Hồng Kông có
diện tích 80km2 bị Anh quốc chiếm trị năm 1841, chính thức chuyển nhượng cho
Anh năm 1842, trên đó một cơ quan chính quyền được xây dựng. Đối diện với nó là
bán đảo Kowloon rộng 7,7 km2, một bến tàu nhỏ nối liền với nó năm 1860. Năm
1898, Hồng Kông được nối thêm 919 km2 gồm một khu vực đất liền, và các đảo gọi
là vùng đất mới do Anh Quốc thuê Trung Quốc trong thời hạn 99 năm. Tổng cọng
toàn lãnh địa Hồng Kông 1.564,4 km2. Dân số (2008): 7.206.000, kể cả gần 20.000
kiều dân Anh. Hồng Kông là trung tâm thương mại và ngân hàng.
Thu nhập bình
quân đầu người được xếp vào loại cao nhất thế giới: 25.400 USD/người/ năm
(2000). Công nghiệp chính của đặc khu Hồng Kông là hàng dệt, may mặc, du lịch,
điện tử, đóng tàu, sắt thép, đánh cá, ciment và sản xuất công nghiệp nhỏ. Dệt
kim Hồng Kông (sợi nhỏ) là một trong những mặt hàng tốt nhất thế giới. Cảng
Hồng Kông là bến tàu quan trọng của Hải quân Anh trong một thời gian dài, và là
một trong các bến cảng có lượng tàu lui tới nhiều nhất thế giới. Nó còn là
thuộc địa mở, nơi dung thân cho những người bị đày ải từ đất liền Trung Quốc.
Hồng Kông bị Nhật Bản chiếm đóng trong thời kỳ chiến tranh Thế giới lần thứ II.
Từ năm 1949 đến năm 1962, Hồng Kông tiếp nhận hơn một triệu người tỵ nạn chạy
trốn khỏi Cộng sản Trung Quốc. Bắt đầu trong thập niên 1950, giá thuê nhân công
rẽ dẫn đến một sự bùng phát trong lĩnh vực công nghiệp nhẹ.
Các chủ
trương thuế khóa dễ dàng đã hấp dẫn đầu tư nước ngoài vào Hồng Kông, làm cho
Hồng Kông trở thành một trong những khu vực sản xuất chính và là nơi giàu có
nhất vùng Viển đông. Bên cạnh những người giàu có là những người nghèo, họ sống
và làm việc trong những điều kiện tồi tàn, tiền lương thấp làm phát sinh nhiều
sự bất ổn chính trị trong thập niên 1960. Luật lệ và các chương trình công ích
tăng thêm tiêu chuẩn sống từ thập niên 1970. Khi thời gian thuê mướn Hồng Kông
sắp đủ 99 năm, Anh Quốc và Trung Quốc ký thỏa ước ngày 19/12/1984, theo đó tất
cả khu vực Hồng Kông sẽ được giao trả cho Trung Quốc năm 1997, và Hồng Kông
được phép duy trì hệ thống tư bản chủ nghĩa của nó trong vòng 50 năm. Tháng
12/1996, Ủy ban bầu chọn nhà cầm quyền Trung Quốc đã chỉ định nhà kinh doanh
hàng hải giàu có Đổng Kiến Hoa (Tung Chee-hwa) làm Chủ quản Đặc khu Hồng Kông
khi Anh Quốc giao trả cho Trung Quốc.
Ngày
1/7/1997, một buổi lễ chuyển giao với đầy đủ nghi thức cấp nhà nước, như một
điểm mốc lịch sử của đặc khu Hồng Kông. Tên đường và hệ thống tiền tệ Hồng Kông
vẫn được duy trì (7,80 đồng Hồng kông=1 USD), nhưng không có hình của Nữ hoàng
Anh trên giấy bạc đô la Hồng Kông. Ngôn ngữ chính thức vẫn là Chinese và
English. Hội đồng Lập pháp cũ giải tán và một Cơ quan Lập pháp mới được chỉ
định để thay thế Hội đồng này. Cơ quan Lập pháp mới quy định giới hạn hoạt động
đối lập và giảm bỏ tiêu chuẩn bầu cử cho người đủ tuổi đi bầu cơ quan lập pháp.
Các ứng viên ủng hộ dân chủ đã thực hiện đầy đủ quyền của mình trong cuộc bầu
phiếu ngày 24/5/1998. Năm 2003, dịch cúm SARS phát khởi ở Hồng Kông giết chết
300 người, và gây thiệt hại lớn lao về kinh tế bởi người ta sợ lây lan không
dám đến Hồng Kông.
Ngày /7/2003,
hàng trăm ngàn cư dân Hồng Kông xuống đường biểu tình phản dối dự luật cấm biểu
tình chống đối nhà nước. Ngày 5/9 dự luật được rút lại. Một cuộc biểu tình khác
diển ra vào ngày 1/7/2004, phản đối chính quyền Bắc Kinh hạn chế tự do dân chủ
tại Hồng Kông. Các ứng viên ủng hộ dân chủ chiếm được sự ủng hộ đông đảo của cử
tri trong cuộc bầu cử ngày 12/9, nhưng không đủ túc số để nắm quyền điều hành
Đặc khu Hồng Kông. Sau khi Đổng Kiến Hoa từ chức ngày 10/3/2005, Donald Tsang
được bầu như người kế vị Tổng chủ quản Hồng Kông với nhiệm kỳ 2 năm. Và, Tsang
đắc cử với nhiệm kỳ 5 năm trong cuộc bầu cử ngày 25/3/2007.
8. Ma Cao: Ma Cao có diện tích 25,89 km2 gồm một phần bên
trong nội địa, một bán đảo và 2 đảo nhỏ tại cửa sông Xi (Pearl) của Trung Quốc.
Nó được xem như là thuộc địa thương mại của Bồ Đào Nha từ năm 1557. Năm 1849,
Bồ Đào Nha đòi toàn quyền cai trị vùng này, đòi hỏi đó được Trung Quốc chấp
nhận trong một Hiệp ước năm 1887. Bồ Đào Nha ban cấp quy chế tự trị cho Ma Cao năm 1976. Năm 1987 Trung
Quốc và Bồ Đào Nha ký một thỏa ước, theo đó Ma Cao sẽ được trả lại cho Trung
Quốc ngày 20/12/1999. Cũng như Hồng Kông chính quyền Trung Quốc bảo đảm cho Ma
Cao sẽ không thay đổi lối sống, và hệ thống tư bản chủ nghĩa trong thời hạn 50
năm. Dân số Ma Cao năm 2008 là 481.000 người.
B. Trung Quốc ngày nay (Số liệu không tính Hồng Kông
và Ma Cao).
Hiến pháp và
chính quyền: Hội nghị Tư vấn chính trị do đảng Cộng sản Trung Quốc triệu tập
nhóm họp ngày 21/9/1949, tại Bắc Kinh thông qua 60 điều khoản Luật cơ bản và 31
điều khoản tổ chức chính quyền trung ương. Cả hai trở thành nền tảng của luật
Hiến pháp được Quốc hội thông qua ngày 20/9/1954. Hội nghị Tư vấn tiếp tục tồn
tại sau 1954 như một cơ quan Tư vấn. 3 tu chính Hiến pháp trong các năm 1975,
1978, và 1982 trao thêm quyền cai trị toàn diện đất nước cho đảng Cộng sản. Sau
đó, Hiến pháp được tu chỉnh từng phần trong các năm 1988, 1983, và 1999, chấp
nhận nguyên tắc Xã hội Chủ nghĩa theo cơ chế thị trường và chủ sở hữu tư nhân.
Quốc hội chỉ có một viện, là cơ quan quyền lực cao nhất với quyền tu chỉnh Hiến
pháp, bầu chọn và cách chức các viên chức cao nhất của chính quyền.
Quốc hội có
2.985 đại biểu được bầu lên bởi Hội đồng Nhân dân cấp tỉnh, vùng, thành phố và
các đơn vị tự trị hành chánh, với nhiệm kỳ 5 năm. Quốc hội bầu ra Ủy ban Thường
trực, Hội đồng Quốc gia (State Council), Chủ tịch và Phó chủ tịch nước cũng với
nhiệm kỳ 5 năm. Khi Quốc hội không họp thì Ủy ban Thường trực Quốc hội thực
hiện chức năng của Quốc hội. Lưu ý: Hội đồng Quốc gia là cơ quan hành pháp cao
nhất gồm Thủ tướng, các Phó thủ tướng, và các thành viên của nó. Quân ủy Trung
ương: là cơ quan chỉ huy cao nhất trong quân đội.
Cư dân và
lãnh thổ: Con người: Dân số: 1.330.141.000, dưới 15 tuổi 17,9%, trên 65 tuổi 8,6%.
Mật độ dân cư: 139 người/km2. Thành phố: 46,1%. Sắc tộc: Han 92%, và 56 nhóm
sắc tộc khác gổm Zhuang, Manchu, Hui, Miao Uygur, Yi, Tujia, Tong, Tibetan,
Mongol... Ngôn ngữ: Madarin (chính), Yue (Cantonese), Wu (Shanghlese), Minbei
(Fuzhou), Minnan (Hokkien-Taiwanese), Xiang, Gan, Hakka, và nhiều ngôn ngữ sắc
tộc thiểu số khác. Tôn giáo: Vô thần là chính, Phật giáo, Lảo giáo, một ít Hồi
giáo, Thiên chúa giáo. Đất đai: Tổng diện tích: 9.596.961 km2. Diện tích đất:
9.569.901 km2. Địa điểm: chiếm hầu hết phần đất liền có thể sinh sống được ở
Đông Á. Quốc gia láng giềng: Mông Cổ phía bắc. Liên bang Nga phía đông bắc và
tây bắc. Afghanistan, Pakistan, Tajikistan, Kyrgystan, Kazakhstan phía tây. Ấn
Độ, Nepal, Blutan, Myanmar, Laos, Việt Nam phía nam. Bắc Triều Tiên phía đông
bắc.
Địa thế: Hai
phần ba là núi non hoặc sa mạc. Đất gieo trồng, một phần mười. Thế đất thấp
nhô cao dần lên, dốc đứng ở phía bắc tại
Daxinganlingshanmai chia tách Manchuria và Mongolia. Núi Tien Shan ở Xingjiang,
Himalayan và Kynlunshanmai phía tây nam và Tibet. Từ bắc đến nam dài 2.992 km
và rộng từ đông sang tây hơn 3.218 km. Một nửa phía đông Trung Quốc là đất có
nước tưới tiêu tốt nhất thế giới. Ba hệ thống sông lớn là sông Chang (Yangtze),
sông Huang (Yellow) và sông Xi cung cấp nước cho một vùng đất nông nghiệp khổng
lồ. Thủ đô: Bắc Kinh (Beijing). Thành phố đông dân: Thượng Hải (Shanghai) 16.344.000,
Bắc Kinh 12.214.000, Chongqing 9.348.000, Shenzhen 8.847.000, Quảng Đông
8.735.000, Tianjin 7.759.000, và Wuhan 7.582.000 cư dân.
Chính trị và
kinh tế: Loại chính quyền: Cộng sản. Nguyên thủ quốc gia và Chủ tịch Quân ủy
trung ương: Chủ tịch Hồ Cẩm Đào (Hu jintao), sinh tháng 12/1942, nhậm chức
15/3/2003 (tái bầu 2008). Thủ tướng chính phủ: Ung Gia Bảo (Wen jiabao) sinh
tháng 9/1942, nhậm chức 16/3/2003 (tái bầu 2008). Chính quyền địa phương: 22
tỉnh (không kể Đài Loan), 5 vùng tự trị, 4 khu thành phố tự quản, và 2 đặc khu
hành chánh là Hồng Kông (1/7/1997), và Ma Cao (20/12/1999). Ngân sách quốc
phòng: 70,3 tỷ. Quân đội chính quy: 2.285.000 triệu. Kinh tế: Công nghiệp: sắt,
thép, than, máy móc xây dựng, hàng dệt, may mặc, khai thác và chế biến dầu lửa,
xi măng, phân hóa học, và vũ khí. Nông sản: gạo, lúa mì, lúa miếng, khoai tây,
dậu phụng, trà. Tài nguyên: than đá, quặng sắt, dầu lửa, khí đốt, nguyên tố kim
loại nặng, kim loại trắng hơi xanh, thủy ngân, chì, mangan đen, thiếc, nguyên
tố kim loại trắng, thủy điện. Dự trữ nhiên liệu: 16 tỷ thùng. Đất nông nghiệp:
15%. Chăn nuôi: trâu bò 119,9 triệu, gà 4,5 tỷ, dê 197,3 triệu, heo 501,5
triệu, cừu 172 triệu. Đánh cá: 62,7 triệu tấn. Cung cấp điện: 3,2 tỷ Kwh. Phân
bố lao động và đóng góp vào Tổng sản lượng quốc gia: nông nghiệp 39,5%, đóng
góp 15%; công nghiệp 27,2%, đóng góp 53%; dịch vụ 33,3%, đóng góp 32%.
Tài chính và
an sinh: Đơn vị tiền tệ: Đồng Yuan Renminbi (tháng 9/2010: 6,7=1USD). Tổng sản
lượng nội địa: 8.700 tỷ. Bình quân đầu người: 6.600. Tăng trưởng: 9,1%. Nhập
khẩu: 954,3 tỷ. Bạn hàng: Nhật Bản 14,6%, Nam Triều Tiên 11,3%, Đài Loan 10,9%,
Hoa Kỳ 7,5%, Đức 4,8%. Xuất khẩu: 1.200 tỷ. Bạn hàng: Hoa Kỳ 21%, Hồng Kông
16%, Nhật Bản 9,5%, Nam Triều Tiên: 4,6%, Đức 4,2%. Du lịch: 40,8 tỷ. Ngân sách
quốc gia: 1.100 tỷ. Dự trữ ngoại tệ: 1.500 tỷ. Dự trữ vàng: 33,8 triệu ozt. Nợ
nước ngoài: 233,0 tỷ. Giá cả tiêu thụ: tăng -0,7%. Vận chuyển: Đường xe lửa:
75.421 km. Bằng xe hơi: 21,3 triệu lượt xe, xe hơi cá nhân: 9,6 triệu. Bằng máy
bay: bay 176,1 tỷ km, sân bay 403. Hải cảng: 4- Shanghai, Qinhuangdao, Dalian,
Guangzhou (Canton). Truyền thông: Máy truyền hình: 291/1000 cư dân. Radio:
342/1000. Điện thoại: 23,3/100. Internet: 28,5/100 người sử dụng. Sức khoẻ y
tế: Tuổi thọ: nam 72,5, nữ 76,8. Sinh xuất: 12,2/1000 cư dân. Tử xuất: 6,9/1000.
Tăng dân số tự nhiên: 0,5%. Chết trước tuổi trưởng thành: 16,5/1000 trẻ sơ
sinh. Nhiểm bệnh AIDS: o,1%. Giáo dục: tuổi cưỡng bức đi học 6-14, biết đọc
biết viết 93,7%, trung học 62%, đại học 6%.
Tham gia tổ
chức quốc tế: Liên Hiệp Quốc (UN) và các tổ chức phụ thuộc của nó như Lương nông
Thế giới (FAO), Ngân hàng Thế giới (IBRD), Lao động Thế giới (ILO), Quỹ tiền tệ
Thế giới (IMF), Hàng hải Thế giới (IMO), Y tế Thế giới (WHO), và Mậu dịch Thế
giới (WTrO). Hợp tác Châu Á - Thái Bình
Dương (APEC).
2. KOREA,
NORTH-DEMOCRATIC PEOPLE'S REPUBLIC OF KOREA (BẮC TRIỀU TIÊN).
A. Tiến trình phát triển.
Cộng hòa Dân
chủ Nhân dân Triều Tiên được thành lập ngày 1/5/1948, trong vùng chiếm đóng của
quân đội Liên Xô sau đệ II thế chiến. Năm 1950, quân đội Bắc Triều Tiên tung
quân xâm chiếm Nam Triều Tiên. Sau 3 năm đánh nhau có sự can dính của Trung
Quốc và Hoa Kỳ, một Hiệp ước ngưng bắn được công bố. Bốn thập niên tiếp đó, chế
độ Cộng sản theo đường lối cứng rắn cầm đầu bởi Kim Nhật Thành (Kim II Sung)
duy trì sự kiểm soát nghiêm ngặt về mọi mặt chính trị kinh tế, và đời sống văn
hóa. Tài nguyên phong phú của quốc gia về hầm mỏ và thủy điện được sử dụng để
phát triển sức mạnh về quân sự và công nghiệp nặng. Tháng 3/1993 bắc Triều Tiên
là quốc gia đầu tiên chính thức rút khỏi Hiệp ước quốc tế không sản xuất vũ khí
hạt nhân, Hiệp ước đề ra giới hạn phổ biến các loại vũ khí mang đầu đạn hạt
nhân.
Tháng 6, nước
này tuyên bố đình hoãn việc rút lui của họ trong hành động đáp trả lại sự đe
dọa cấm vận kinh tế của Liên Hiệp Quốc, nhưng người ta tin rằng Bắc Triều Tiên
đang phát triển vũ khí hạt nhân. Ngày 13/8/1994, Hoa Kỳ và Bắc Triều Tiên đạt
được một thỏa hiệp tạm thời với ý định sẽ giải quyết vấn đề liên quan đến hạt
nhân trong các cuộc thương thảo xa hơn sau đó. Kim Nhật Thành chết ngày
8/7/1994. Ông đặt con trai là Kim Jong II vào cương vị kế thừa. Tại thời điểm
này, có một số viên chức cao cấp Bắc Triều Tiên tỵ nạn chính trị ở nước ngoài.
Nền kinh tế suy thoái, nạn khan hiếm thực phẩm xuống đến mức trầm trọng. Ngày
17/9/1999, Hoa Kỳ tháo bỏ các hạn chế thương mại, sau khi chính quyền Bình
Nhưỡng đồng ý ngưng các vụ thử nghiệm hạt nhân ở cấp độ rộng và trong một thời
gian dài.
Hội nghị
thượng đỉnh giữa các nhà lãnh đạo Bắc và Nam Triều Tiên được tổ chức tại Bình
Nhưỡng từ ngày 13-15/6/2000, đánh dấu một sự cải thiện "vô tiền khoáng
hậu" về quan hệ giữa hai chính quyền Triều Tiên, và đưa đến sự bãi bỏ lệnh
cấm vận hoàn toàn của Hoa Kỳ. Tháng 9/2002, Thủ tướng Nhật Bản Junichiro
Koizumi trở thành vị thủ tướng Nhật Bản đầu tiên thăm viếng Bắc Triều Tiên. Tại
cuộc thăm viếng nầy, các nhà lãnh đạo đã đạt tới sự thỏa thuận cấp cao là Bắc
Triều Tiên bắt đầu bình thường hóa quan hệ, và lần đầu tiên thú nhận các cơ
quan hữu trách của nước này đã hỗ trợ trong việc bắc cóc 11 người Nhật vào cuối
thập niên 1970. Ngày 31/ 1/2002, trong một lời phát biểu Tổng thống Hoa Kỳ
George Bush nói Bắc Triều Tiên cùng với Iraq và Iran là một “trục ác quỷ”(axis
of evil).
Tháng
10/2002, Bắc Triều Tiên thừa nhận có theo đuổi chương trình hạt nhân, và trong
tháng 1/2003, nước nầy tuyên bố rút lui khỏi Hiệp ước cấm phát triển vủ khí hạt
nhân. Để giải toả bế bế tắc giữa hai nước, Hoa Kỳ đòi Bắc Triều Tiên phải từ bỏ
chương trình hạt nhân trong khi Bắc Triều Tiên lại yêu cầu phải có một Hiệp ước
bất tương xâm và trợ giúp kinh tế từ phía Hoa Kỳ. Tháng 8/2003, Trung Quốc đứng
ra bảo trợ một Hội nghị 6 nước gồm Bắc Triều Tiên, Nam Triều Tiên, Nhật Bản,
Hoa Kỳ, Liên bang Nga, và Trung Quốc để thảo luận về chương trình hạt nhân của
Bắc Triều Tiên. Hội nghị 6 nước tái họp trong tháng 2 và tháng 6/2004, nhưng
vẫn không đạt được một sự thỏa thuận nào. Ngày 22/4/2004, một vụ nổ lớn xẩy ra
tại ga xe lửa Ryongchon giết chết 161 người, bị thương hơn 1.300 người và phá
hủy ít nhất 8.100 ngôi nhà.
Tháng/2005,
Bắc Triều Tiên lần đầu tiên công khai tuyên bố họ có sở hửu vủ khí hạt nhân. Và
ngày 9/10/2006, họ tiến hành một cuộc thử nghiệm bằng cách cho nổ dưới lòng
đất. Ngày 13/ 2/2007, Hội nghị 6 nước tái nhóm tại Bình Nhưởng đạt tới thỏa
thuận Bắc Triều Tiên sẽ được cung cấp năng lượng, đổi lại nước nầy phải đóng
cửa lò phản ứng hạt nhân. Tháng 10, một thỏa thuận khác xa hơn theo đó Bắc
Triều Tiên từ bỏ chương trình sản xuất và tồn trử năng lượng hạt nhân gồm 3
bước đến cuối năm 2008. Tuy nhiên, đến thời hạn cuối cùng là tháng 12/2007, mà
Bình Nhưỡng vẫn chưa cung cấp đầy đủ các chi tiết về vủ khí hạt nhân theo thỏa
thuận. Ngày 26/6/2008, thông qua Trung Quốc, Bắc Triều Tiên đã giao nộp bản
tường trình chi tiết các hoạt động hạt nhân của họ cho Hoa Kỳ như đã thỏa
thuận.
Và, hôm sau
ngày 27/6/2008, trước sự chứng kiến của 5 nước Mỹ, Nga, Hoa, Nhật, và Nam Hàn
và giới truyền thông, Bắc Hàn đã cho nổ tung lò phản ứng hạt nhân Yongbyon.
Ngày11/10 Hoa Kỳ đưa Bắc Triên Tiên ra khỏi danh sách các nước bảo trợ khủng
bố. Có nhiếu tin đồn liên quan đến sức khoẻ của lảnh tụ Kim Jong II, đang trải
qua một cơn đột quỵ vào giữa tháng 8/2008. Trong tháng 4-5/2009, Bắc Triều Tiên
đình hoản cuộc đàm phán 6 bên, và trục xuất các thanh tra viên quốc tế đang
điều tra cơ sở sản xuất vủ khí hạt nhân tại đây. Ngày 12/6, Hội đồng Bảo an
Liên hiệp quốc gia hạn lệnh cấm vận lên
Triều Tiên.
Căng thẳng giữa hai miền Bắc-Nam Triều Tiên sau ngày 26/3/2010, khi chiếc tàu
chiến mang tên Cheonan của Nam Triều Tiên bị chìm làm chết 46/104 thủy thủ trên
tàu.
Một cuộc điều
tra có cả chuyên viên quốc tế ngày 20/5 kết luận tàu Cheonan bị chìm bởi tàu
ngầm Bắc Triều Tiên tấn công. Hai cuộc thăm viếng của hai cựu Tổng thống Hoa Kỳ
là Bill Clinton hồi tháng 8/2009, và Jimmy Carter tháng 8/2010 thành công tốt
đẹp, là nhiều người Mỹ bị cầm tù đã được Bắc Triều Tiên phóng thích. Trong
tháng 9 và 10, có nhiều dấu hiệu cho thấy, cuối cùng thì Kim Jong II đã chọn
con trai út là Kim Jong Un là người sẽ kế vị ông ta.
B. Bắc Triều tiên ngày nay.
Hiến pháp và
chính quyền: Hiến pháp ngày 27/12/1972, dựa vào chủ nghĩa Mác-Lênin và tổ chức chính quyền kiểu Cộng sản. Năm 1992, tu
chỉnh Hiến pháp xóa bỏ cụm từ dựa vào chủ nghĩa Mác-Lenin, nhưng vẫn duy trì
chính quyền Cộng sản gồm: Một Ủy ban Nhân dân Trung ương cai trị đất nước dưới
danh nghĩa Hội đồng quản lý. Một Quốc hội Nhân dân có 687 đại biểu do dân bầu
với nhiệm kỳ 5 năm. Nguyên thủ quốc gia là Chủ tịch Kim Nhật Thành (Kim II
Sung) từ ngày thành lập Bắc Triều Tiên (1948) đến khi ông ta chết năm 1994. Từ
đó, con trai ông ta là Kim Chánh Nhất (Kim Jong II) như mặc nhiên kế thừa tất
cả các chức vụ của Kim Nhật Thành cho đến ngày 5/8/1998, Kim Chánh Nhất mới
chính thức tuyên thệ nhận Chức chủ tịch nước và là nhà lãnh đạo tối cao đảng
Lao Động với 2 triệu đảng viên. Trong hệ thống chính trị còn có các đảng bù
nhìn như đảng Dân chủ, đảng Đức tin Chongu, và các tổ chức khác trong Mặt trận
Tổ quốc.
Cư dân và
lãnh thổ: Con người: Dân số: 22.757.000, dưới 15 tuổi 20,9%, trên 65 tuổi 9,6%.
Mật độ dân cư: 189 người/km2. Thành phố: 60,1%. Sắc tộc: Korean. Ngôn ngữ:
Korean. Tôn giáo: Hầu như không tồn tại các sinh hoạt tôn giáo. Phật giáo, Khổng giáo, Chondogyo là
các niềm tin truyền thống. Đất đai: Tổng diện tích: 120.538 km2. Diện tích đất:
120.408 km2. Địa điểm: ở phía đông bắc Châu Á. Quốc gia láng giềng: Trung Quốc
và Liên bang Nga phía bắc. Nam Triều Tiên phía nam. Địa thế: Núi và đồi bao phủ
gần như toàn bộ quốc gia, ở giữa núi đồi có các lưu vực hẹp và bình nguyên nhỏ.
Phía bắc và đông bờ biển là các khu vực hầu hết gồ ghề, lởm chởm. Thủ đô: Bình
nhưỡng (Pyongyang). Thành phố đông dân: Bình Nhưỡng 2.828.000, Nampo 1.127 00
cư dân.
Chính trị và
kinh tế: Loại chính quyền: Cộng sản. Nguyên thủ quốc gia: Chủ tịch Kim Jong II,
sinh 16/2/1942, nhậm chức 8/10/1997. Thủ tướng chính phủ: Choe Yong Rim, sinh 20/11/1930,
nhậm chức: ngày 7/6/2010. Chính quyền địa phương: 9 tỉnh và 4 thành phố đặc
biệt. Ngân sách quốc phòng: không có số liệu. Quân đội chính quy: 1.106.000.
Kinh tế: Công nghiệp: trang thiết bị quân sự, máy móc, xây dựng, điện lực, hóa
chất, khai thác mỏ, luyện kim, hàng dệt. Nông sản: gạo, bắp, khoai tây, đậu
nành. Tài nguyên: than đá, nguyên tố kim loại nặng, kim loại trắng, than, chì,
kim loại trắng bạc, quặng sắt, đồng, vàng, muối. Dự trử nhiên liệu: không có số
liệu. Đất nông nghiệp: 22%. Chăn nuôi: trâu bò 576.000, gà 22 triệu, dê 2,8
triệu, heo 3,3 triệu, cừu 173.000. Đánh cá: 713.000 tấn. Cung cấp điện: 20,9 tỷ
Kwh. Phân bố lao động và đóng góp vào Tổng sản lượng quốc gia: nông nghiệp 37%,
đóng góp 30%; công nghiệp 32%, đóng góp 34%; dịch vụ 31%, đóng góp 36%.
Tài chính và
an sinh: Đơn vị tiền tệ: Đồng Won (tháng
9/2010: 143=1USD). Tổng sản lượng nội địa: 40 tỷ. Bình quân đầu người: 1.900
USD. Tăng trưởng: 3,7%. Nhập khẩu: 3,6 tỷ. Bạn hàng: China 42%, Nam Triều Tiên
28%, Nga 9%, Thailand 8%. Xuất khẩu: 2,1 tỷ. Bạn hàng: Trung Quốc: 35%, South
Korea 24%, Thái Lan 9%, Japan 9%. Du lịch: không có số liệu. Ngân sách quốc
gia: 2,9 tỷ. Dự trữ ngoại tệ: không có số liệu. Dự trữ vàng: không có số liệu.
Nợ nước ngoài: 12,0 tỷ. Giá cả tiêu thụ: không có số liệu. Vận chuyển: Đường xe
lửa: 5.234 km. Bằng xe hơi: không có số liệu. Xe hơi cá nhân không có số liệu.
Bằng máy bay: bay 38,9 triệu km, sân bay 36. Hải cảng: 3-Chonjin, Hamhung,
Nampo. Truyền thông: Máy truyền hình: 55/1000 cư dân. Radio: 146/1000. Điện
thoại: 4,9/100. Internet: không có số liệu. Sức khoẻ y tế: Tuổi thọ: nam 61,5,
nữ 66,9. Sinh xuất: 14,6/1000 cư dân. Tử xuất: 10,6/1000. Tăng dân số tự nhiên:
0,4%. Chết trước tuổi trưởng thành: 50,2/1000 trẻ sơ sinh. Nhiểm AIDS: không có
số liệu. Giáo dục: tuổi cưỡng bức đi học 6-15, biết đọc biết viết 100%, trung
học và đại học không có số liệu.
Tham gia tổ
chức quốc tế: Liên Hiệp Quốc (UN) và các tổ chức phụ thuộc của nó như Lương
nông Thế giới (FAO), Hàng hải Thế giới (IMO), và Y tế Thế giới (WHO). Tổ chức
hàng hải Thế giới (IMO).
A. Tiến trình phát triển.
Triều Tiên
từng có lần gọi là Vương quốc Hermit được ghi nhận vào lịch sử từ thế kỷ thứ I
Trước công nguyên (TCN). Năm 668, Sau công nguyên (SCN) nó liên minh với một
vương quốc khác dưới sự cai trị của Vương triều Silla. Có những lúc nó lại liên
hợp với đế quốc Trung Quốc. Một hiệp ước gồm cả Trung Quốc và Nhật Bản trong
chiến tranh 1894-1895, thừa nhận sự độc lập vẹn toàn của Triều Tiên. Năm 1910,
Nhật Bản xua quân thôn tính Triều Tiên. Tại Hội nghị Potsdam tháng 7/1945, quy
định vĩ tuyến thứ 38 là đường phân ranh cho quân đội Hoa Kỳ và Liên Xô chiếm
đóng. Quân đội Liên Xô vào Bắc Triều Tiên ngày 10/8/1945, quân đội Hoa Kỳ vào
Nam Triều Tiên ngày 8/9/1945. Tháng 5/1948, Nam Triều Tiên thành lập chế độ
Cộng hòa với thủ đô của nó là thành phố Seoul. Bác sĩ Syngman Rhee được chọn
làm Tổng thống.
Một chế độ
Cộng sản đối kháng do Kim Nhật Thành lãnh đạo cũng được thành lập ở Bắc Triều
Tiên. Tháng 6/1950, Cộng sản Bắc Triều Tiên xua quân đánh chiếm Nam Triều Tiên.
Và thế là chiến tranh Triều Tiên bắt đầu. Quân Liên Hiệp Quốc do Hoa Kỳ chỉ huy
gởi tới Nam Triều Tiên chận đứng sự xâm lăng của Cộng sản Bắc Triều Tiên. Tháng
7/1953 chiến tranh kết thúc, nhưng sự chia cắt hai miền Nam Bắc theo đường phân
ranh phi quân sự dọc theo vĩ tuyến 38 vẫn chưa được giải quyết. Sự cai trị độc
tài của Bác sĩ Rhee làm quần chúng phản đối. Một cuộc vận động do sinh viên các
trường đại học xuống đường tuần hành thách thức chính quyền, buộc ông ta từ
chức ngày 26/4/1960. Ngày 16/5/1961 một cuộc đảo chánh do tướng Park Chung Hee
cầm đầu thành công đưa ông ta lên ngôi vị lãnh đạo chính phủ.
Park Chung
Hee được bầu làm Tổng thống năm 1963, và trong một cuộc trưng cầu dân ý năm
1972, cho phép ông ta tái bầu không giới hạn vào các nhiệm kỳ Tổng thống 6 năm.
Ngày 26/10/1979, Park Chung Hee bị ám sát bởi trưởng cơ quan CIA tại Nam Triều
Tiên. Tháng 5/1980, tướng Chun Doo Hwan cầm đầu ngành tình báo quân đội nắm
quyền cai trị ban hành lệnh thiết quân luật, và ra lệnh thẳng tay đàn áp những
người biểu tình đòi dân chủ ở thành phố Kwangju. Tháng 7/1982, Nam và Bắc Triều
Tiên đồng ý trên mục tiêu tái thống nhất hai nước bằng các cuộc thương thảo hòa
bình. Nhưng không có ký một văn bản nào tháo bỏ các mối bất đồng giữa hai chế
độ. Cho đến năm 1985, họ mới đồng ý với nhau thảo luận trên các vấn đề liên
quan đến kinh tế.
Ngày
10/6/1987, giai cấp trung lưu gồm nhân viên văn phòng, chủ hiệu buôn và các nhà
hoạt động kinh doanh kết hợp với sinh viên tuần hành, phản đối chính quyền ở
thành phố thủ đô Seoul yêu cầu cải cách dân chủ. Sau nhiều tuần bạo loạn đập
phá, ngày 1/7, Chun Doo Hwan phải chấp nhận các yêu sách của những người biểu
tình phản đối, chẳng hạn đồng ý tổ chức bầu cử tổng thống, và nhiều cải cách
khác. Tháng 12/1987, Roh Tae Woo được bầu làm Tổng thống. Năm 1990, ba đảng
chính trị lớn hợp nhất. Khoảng 100 ngàn sinh viên xuống đường biểu tình phản
đối sự hợp nhất nầy xem đó như là một hành động có tính toán, thiếu dân chủ.
Năm 1993, Kim Young Sam được bầu làm Tổng thống, lần đầu tiên Nam Triều tiên có
vị tổng thống dân sự kể từ năm 1961.
Bị cáo buộc
nổi loạn, phản quốc, tham nhũng, trách nhiệm trong vụ đảo chánh năm 1979, và
tàn sát người biểu tình ở Kwangju năm 1980, cựu Tổng thống Chun Doo Hwan bị kết
án tử hình trong phiên tòa tại Seoul ngày 6/8/1996. Còn cựu Tổng thống Roh Tae
Woo nhận bản án 22 năm rưỡi tù giam. Ngày 16/12 Chun được giảm án thành tù
chung thân, và Roh còn 7 năm tù giam. Sự sụp đổ tòa nhà kiên cố tháng 1/1997
gây ra tai tiếng xung quanh việc xây cất tòa nhà này. Sự xuống giá nhanh chóng
tiền tệ và thị trường chứng khoán khiến nam Triều tiên phải ngăn chặn sự xuống
dốc thêm nửa bằng cách ký vay 57 tỷ Mỹ kim không tiền bảo chứng của Quỹ tiền tệ
thế giới vào ngày 4/12. Kim Dae Jung người bất đồng chính kiến trong một thời
gian dài đã giành thắng lợi trong cuộc bầu cử Tổng thống ngày 18/12/1997.
Bốn ngày sau,
ngày 22/12 Kim Dae Jung ký lệnh ân xá cho hai cựu tổng thống Chun và Roh. Từ
ngày 13-15/6/2000, Hội nghị thượng đỉnh đầu tiên nhóm họp tại Bình Nhưỡng giưa
hai vị Tổng thống Nam Triều Tiên Kim Dae Jung và Chủ tịch Bắc Triều Tiên Kim
Jong II. Hai nhà lảnh đạo đồng ý làm việc với nhau cho mục đích hòa giải và
tiến dần đến việc tái thống nhất Triều Tiên. Sự kiện nầy làm cho Kim Dae Jung
được giải Nobel Hòa bình năm 2000. Khó khăn lại ập tới bởi vụ xung đột hải quân
với Bắc Triều Tiên ngày 29/6/2002, và bởi các vụ tham nhũng bị phanh phui chính
ngay trong gia đình của Kim Dae Jung. Ngày 11/7/2002, Kim Dae Jung cải tổ nội
các. Quốc hội kiểm soát bới các thành viên đảng đối lập bác bỏ hai lần đề nghị
bổ nhiệm Thủ tướng của ông ta vào ngày 31/7 và 28/8/2002.
Trong cuộc
bầu cử Tổng thống ngày 19/12, Roh Moo Hyun đắc cử. Vụ cháy xe điện ngầm tại Taegu
ngày 18/2/2003, giết chết 198 người, kẻ gây ra vụ cháy nhận án tù chung thân, 8
người khác bị buộc tội bất cẩn cũng bị án tù có thời hạn. Trận cuồng phong
Maemi ập vào Pusan và vùng phụ cận ngày 12-13/9/2003 làm thiệt mạng 130 người
và thiệt hại tài sản tới 4,1 tỷ mỹ kim. Ngày 12/3/2004, Quốc hội cáo buộc Tổng
thống Roh Moo Hyun cố ý làm trái mua chuộc cử tri trong cuộc bầu cử Quốc hội,
để đảng Uri có đa số phiếu hậu thuẩn cho Roh. Ngày 14/5 tòa án Hiến pháp tuyên
bố Roh vô tội. Tháng 8/2004, Nam Triều Tiên gởi 3.000 quân tham chiến phía bắc
Iraq. Ngày 2/9, Ủy ban năng lượng hạt nhân quốc tế cáo buộc Nam Triều Tiên vi phạm Hiệp ước về hạt nhân, và có một thỏa
ước song phương với Bắc Triều Tiên.
Ngày
1/1/2007, Ban Ki-Moon nguyên Bộ trưởng Ngoại giao Nam Triều Tiên từ năm
2004-2006, nhậm chức Tổng Thư ký Liên Hiệp Quốc. Ngày 2/4 Hoa Kỳ và Nam Triều
Tiên ký hiệp ước mậu dịch tự do giữa hai nước. Tháng 10/2007, cả Bắc lẫn Nam
Triều Tiên đều ra lời kêu gọi một nền hòa bình vĩnh viễn cho bán đảo thay thế Hiệp
ước đình chiến tạm thời kể từ khi chấm dứt chiến tranh Triều Tiên năm 1953.
Trong cuộc bầu cử Tổng thống ngày 19/12/2007, Lee Myung-Bak, nguyên một nhà
thầu xây dựng và Thị trưởng Thành phố Seoul, đảng Quốc gia giành chiến thắng
với 48,7% phiếu bầu, về nhì là ứng viên Chung Dong-Yuong của đảng Dân chủ Thống
nhất. Tháng 6/2008, một cuộc biểu tình phản đối quyết định của chính phủ trong
việc cho phép nhập cảng thịt bò từ Hoa Kỳ, đã bị cấm từ năm 2003 bởi dịch bò
điên.
Ngày
23/5/2009, tổng thống vừa mãn nhiệm, Roh Moo Hyun bị cáo buộc tham nhủng đã tự
tử. Nam Triều Tiên gởi 3.600 quân tham chiến với Hoa Kỳ tại Iraq từ cuối năm 2008,
và đã rút về vào giữa năm 2010. Tính đến thời điểm nầy, Hoa Kỳ còn 28.500 quân
đồn trú tại Nam Triều Tiên, và Nam Triều Tiên cũng còn 270 quân tại chiến
trường Afghanistan.
B. Nam Triều Tiên ngày nay.
Hiến pháp và
chính quyền: Hiến pháp năm 1988, quy định Tổng thống là nguyên thủ Quốc gia, do
dân bầu trực tiếp với nhiệm kỳ 5 năm. Tổng thống chỉ định các thành viên của
Hội đồng Quốc gia (chính phủ) và đứng đầu Hội đồng nầy. Quốc hội gồm 299 đại
biều do dân bầu trực tiếp trong các khu vực bầu cử 243, và 56 đại biểu dành
riêng cho các đảng phái theo danh sách và tỷ lệ quy định, đại biểu Quốc hội có
nhiệm kỳ 4 năm. Hiến pháp hiện tại là Hiến pháp của nền đệ VI Cộng hòa.
Cư dân và
lãnh thổ: Con người: Dân số: 48.636.000, dưới 15 tuổi 16,2%, trên 65 tuổi 11,1%.
Mật độ dân cư: 501,8 người/km2. Thành phố: 82,7%. Sắc tộc: Korean, và một ít
China. Ngôn ngữ: Korean, English dạy rộng rải trong các trường học. Tôn giáo:
Thiên chúa giáo 25%, Phật giáo 23%, không tôn giáo 49%. Đất đai: Tổng diện
tích: 99.720 km2. Diện tích đất: 96.920 km2. Địa điểm: phía bắc Đông Á. Quốc
gia láng giềng: Bắc Triều Tiên phía bắc.
Địa thế: Quốc gia núi non trùng điệp, với bờ biển phía đông gồ ghề. Bờ phía tây
và nam có nhiều nơi thụt sâu vào bên trong nội địa, với nhiều đảo và hải cảng.
Thủ đô: Seoul. Thành phố đông dân: Seoul 9.778.000, Busan 3.439.000, Incheon
2.572.000 cư dân.
Chính trị và
kinh tế: Loại chính quyền: Cộng hòa. Nguyên thủ quốc gia: Tổng thống Lee
Myung-Bak, sinh 19/12/1941, nhậm chức 25/2/2008. Thủ tướng chính phủ: Kim Hwang
Sik, sinh ../../1948, nhậm chức 1/10/2010. Chính quyền địa phương: 9 tỉnh và 7
thành phố. Ngân sách quốc phòng: 24,5 tỷ. Quân đội chính quy: 687.000. Kinh tế:
Công nghiệp: điện, xe hơi, y dược, đóng tàu, luyện kim, hàng dệt, may mặc, giày
dép, chế biến thực phẩm. Nông sản: gạo, hạt ngủ cốc, lúa mạch, rau quả, trái
cây. Tài nguyên: than đá, nguyên tố kim loại nặng, kim loại trắng bạc, than
chì, thủy điện. Dự trử nhiên liệu: không có số liệu. Đất nông nghiệp: 17%. Chăn
nuôi: trâu bò 2,6 triệu, gà 121 triệu, dê 527.000, heo 9,9 triệu, cừu 1.350.
Đánh cá: 3 triệu tấn. Cung cấp điện: 415,9 tỷ Kwh. Phân bố lao động và đóng góp
vào Tổng sản lượng quốc gia: nông nghiệp 7,2%, đóng góp 4%; công nghiệp 25,1%,
đóng góp 36%; dịch vụ 67,7%, đóng góp 60%.
Tài chính và
an sinh: Đơn vị tiền tệ: Đồng Won (tháng 9/2010: 1.160=1USD). Tổng sản lượng
nội địa: 1.400 tỷ. Bình quân đầu người: 28.100. Tăng trưởng: 0,2%. Nhập khẩu: 317,5
tỷ. Bạn hàng: Nhật Bản 17,4%, Trung Quốc 15,4%, Hoa Kỳ 11,2%, Saudi Arabia
6,4%. Xuất khẩu: 373,6 tỷ. Bạn hàng: Trung Quốc 24,7%, Hoa Kỳ 13,1%, Nhật Bản
7,5%, Hồng Kông 4,2%, Taiwan 4,1%. Du lịch: 9,8 tỷ. Ngân sách quốc gia: 213,7
tỷ. Dự trữ ngoại tệ: 172,1 tỷ. Dự trữ vàng: 463.646 ozt. Nợ nước ngoài: 160,0
tỷ. Giá cả tiêu thụ: tăng 2,8%. Vận chuyển: Đường xe lửa: 3.470km. Bằng xe hơi:
10,6 triệu lượt xe, xe hơi cá nhân 4,3 triệu. Bằng máy bay: bay 67 tỷ km, sân
bay 68. Hải cảng: 2- Pusan, Inchon. Truyền thông: Máy truyền hình: 364/1000 cư
dân. Radio: 1039/1000. Điện thoại: 39,9/100 triệu. Internet: 81,6/100 người sử
dụng. Sức khoẻ y tế: Tuổi thọ: nam 75,6, nữ 83,2. Sinh xuất: 8,7/1000 cư dân.
Tử xuất: 6,2/1000. Tăng dân số tự nhiên: 0,2%. Chết trước tuổi trưởng thành: 4,2/1000
trẻ sơ sinh. Nhiểm bệnh AIDS: 0,1%. Giáo dục: tuổi cưỡng bức đi học 6-14, biết
đọc biết viết 97,9%, trung hoc 100%, đại học 52%.
Tham gia tổ
chức quốc tế: Liên Hiệp Quốc (UN) và các tổ chức phụ thuộc của nó như Lương
nông Thế giới (FAO), Ngân hàng Thế giới (IBRD), Lao động Thế giới (ILO), Quỷ
tiền tệ Thế giới (IMF), Hàng hải Thế giới (IMO), Y tế Thế giới (WHO), và Thương
mại Thế giới (WTrO). Hợp tác kinh tế Châu Á Thái Bình Dương (APEC), Hợp tác Kinh
tế và Phát triển (OCED).
A. Tiến trình phát triển.
Theo truyện
kể của người Nhật Bản, đế quốc Nhật được thành lập năm 660 Trước công nguyên
(TCN) bởi Hoàng đế Jimmu, nhưng các ghi chép lại nói về ngày quốc gia Nhật Bản
thống nhất khoảng 1000 năm sau đó. Ảnh hưởng Trung Quốc rất lớn trong việc hình thành nền văn minh Nhật Bản.
Đạo Phật được truyền bá vào đây trước thế kỷ thứ 6 Sau công nguyên (SCN). Hệ
thống Phong kiến với các gia đình quý tộc địa phương đầy quyền lực, và đội quân
thiện chiến của họ thống trị từ năm 1192. Chính phủ Trung ương tập quyền được
trao cho các gia đình Shoguns (quân sự độc tài) giữa năm 1192 và 1867, cho đến
khi nó được thay thế bởi Hoàng đế nhà Minh Trị (Meiji) năm 1868. Bồ Đào Nha và
Hòa Lan có buôn bán với Nhật Bản trong thế kỷ 16 và 17.
Thuyền trưởng
Matthew C. Perry, người Mỹ thăm viếng Nhật Bản và ký hiệp ước giao thương Hoa
Kỳ - Nhật Bản. Hiệp ước được phê chuẩn năm 1854. Công nghiệp hóa Nhật Bản bắt
đầu từ cuối thế kỷ 19. Năm 1894-1895, Nhật Bản đánh Trung Quốc chiếm đảo Đài
Loan. Sau chiến tranh với Nga năm 1904-1905, Nga nhượng một nửa phía Nam đảo
Sakhalin và trao quyền đặc nhượng ở Trung Quốc. Năm 1910, Nhật Bản thôn tính
Triều Tiên. Trong đệ I thế chiến, Nhật Bản đánh bật Đức Quốc ra khỏi Quảng Đông
(Shandong), Trung Quốc và chiếm tất cả các đảo trên Thái Bình Dương do Đức kiểm
soát. Năm 1931, Nhật chiếm Mãn Châu (Manchuria) và lao vào cuộc chiến tranh
toàn diện với Trung Quốc năm 1937. Ngày 7/12/1941, Nhật Bản khởi chiến với Hoa
Kỳ bằng cuộc tấn công Trân Châu Cảng (Pearl Harbor).
Hoa Kỳ thả
hai quả bom nguyên tử vào thành phố Hiroshima ngày 6/8, và Nagasaki ngày
9/8/1945. Nhật Bản đầu hàng đồng minh ngày 14/8/1945. Hiến pháp mới được thông
qua ngày 3/5/1947. Nhật Bản công bố từ bỏ quyền tiến hành chiến tranh. Hoàng đế
từ bỏ quyền tối thượng, Nghị viện trở thành cơ quan duy nhất được ban hành luật
pháp. Nhật Bản, Hoa Kỳ và 48 Quốc gia không cộng sản ký hiệp ước hòa bình. Hoa
Kỳ còn ký với Nhật Bản một thỏa hiệp phòng thủ song phương ngày 8/9/1951 tại
San Francisco và một hiệp ước phục hồi quyền tối thượng của quốc gia Nhật Bản
ngày 28/4/1952. Về tái thiết sau chiến tranh thế giới lần thứ II, Nhật Bản nổi
lên như một quốc gia có nền kinh tế mạnh nhất thế giới chỉ sau Hoa Kỳ, và là
một quốc gia hàng đầu về kỷ thuật.
Hoa Kỳ và Tây
Âu chỉ trích Nhật Bản về chính sách hạn chế nhập khẩu, cái đã cho phép Nhật Bản
tích lũy được một số ngoại tệ thặng dư lớn trong quan hệ mậu dịch với Thế giới.
Ngày 26/6/1968, Hoa Kỳ đã trả lại cho Nhật Bản quyền cai trị trên các đảo
Bonin, Volcano và Marcus. Ngày 15/5/1972, Hoa Kỳ trả thêm cho Nhật Bản các đảo
Okinawa, Ryukyu, và Daito. Tuy nhiên, Nhật Bản đồng ý cho Hoa Kỳ được tiếp tục
duy trì các căn cứ quân sự trên đảo Okinawa. Vụ tai tiếng kết nạp đảng viên mới
của đảng Tự do cầm quyền là vụ tai tiếng chính trị tệ hại nhất của Nhật Bản kể
từ sau đệ II thế chiến. Nó liên quan đến việc tặng hiến tiền bạc và cổ phần
thương mại cho các chính trị gia, khiến Thủ tướng Noburo Takeshita phải từ chức
trong tháng 5/1989.
Những vụ tai
tiếng kinh tế và chính trị mới sau đó khiến đảng Dân chủ Tự do cầm quyền (LDP)
bị mất ghế không chiếm được đa số trong cuộc bầu cử ngày 18/7/1993, và ngày
29/6/1994. Tomichi Murayama trở thành vị Thủ tướng đầu tiên của đảng Xã hội
Nhật Bản kể từ năm 1947-1948. Một trận động đất trong vùng Kobe tháng giêng
1995 đã làm hơn 5000 người chết, gần 35.000 người bị thương và làm thiệt hại
tài sản trên 90 tỷ USD. Ngày 20/2 vụ tấn công bằng hơi độc gây tác hại thần
kinh trong đường xe điện ngầm Tokyo do một nhóm cuồng tín tôn giáo thực hiện
làm 12 người chết và hàng ngàn người bị thương. Sự giận dữ của công chúng tăng
cao khi một nữ sinh 13 tuổi ở Okinawa bị ba quân nhân Mỹ thay nhau hãm hiếp
ngày 4/9, dẫn tới việc Hoa Kỳ bắt đầu giảm sự hiện diện quân đội của họ tại đó.
Ngày 5/1/1996
Murayama từ chức Thủ tướng và được thay thế bởi Ryutaro Hashimoto thuộc đảng
Dân chủ Tự do. Hashimoto ký một tuyên bố an ninh chung với Tổng thống Mỹ Bill
Clinton tại Tokyo ngày 17/4/1996. Thế vận mùa đông từ ngày 7-22/2/1998 diển ra
tại Thành phố Nagano. Trong thời gian dài Nhật Bản lún sâu vào suy thoái, đảng
Dân chủ Tự do trải qua một sự chê trách mạnh mẽ trong cuộc bầu cử Thượng viện
ngày 12/7/1998. Hashimoto từ chức và ngày 24/7 đảng Dân chủ Tự do chọn Keizo
Obuchi làm Thủ tướng. Sau khi Obuchi tai biến ngã quỵ ngày 3/4/2000, một đảng
viên đảng Dân chủ Tự do là Yoshiro Mori kế thừa ông ta ngày 5/4. Obuchi chết
ngày 14/5. Cuộc bầu cử Quốc hội ngày 25/6, đảng Dân chủ Tự do và đồng minh của
nó bị sút giảm đa số ghế tại Hạ viện.
Mori không
được quần chúng ưa thích bị thay thế chức lãnh tụ đảng và Thủ tướng trong tháng
4/2001 bởi Junichiro Koizumi, một nhà cải cách được ưa chuộng. Koisumi lập một
toán chuyên gia nghiên cứu và đề xuất giải pháp bầu Thủ tướng bằng phổ thông đầu
phiếu. Tháng 8/2002, Koizumi trở thành nhà lảnh đạo Nhật Bản đầu tiên thăm
viếng Bắc Triều Tiên, nhà lảnh đạo Bắc Hàn Kim Jong II đã xin lổi về việc 5
công dân Nhật bị bắt cóc. Năm người bị bắt cóc nầy được trả về Nhật Bản trong
tháng 10/2002. Liên minh nắm đa số ghế trong Quốc hội do Koizumi lảnh đạo vẫn
duy trì quyền lực trong cuộc bầu cử ngày 9/11/2003. Tháng 2/2004, lần đầu tiên
từ sau Thế chiến II, Nhật Bản gởi hơn 500 quân nhân không chiến đấu ra nước
ngoài đến giúp tái thiết Iraq.
Vụ rò rỉ lò
phản ứng hạt nhân tại Mihama ngày 9/8/2004 giết chết 5 công nhân. Ngày
25/4/2005, một vụ tại nạn xe lửa tai Amagasaki phìa tây Nhật Bản làm trên 100
người thiệt mạng. Cuộc bầu cử Quốc hội ngày 11/9/2005, cử tri uỷ thác cho
Koizumi của đảng Dân chủ Tự do (LDP) tái phục hồi nền kinh tế. Tháng 9/2006,
Shinzo Abe người được Koizumi ủng hộ kế thừa ông ta cả hai chức lảnh tụ đảng và
Thủ tướng. Vụ tai tiếng liên quan đến đảng Tự do đương quyền khiến nhiều Bộ
trưởng phải từ chức, và Bộ trưởng Nông nghiệp Toshikatsu Matsuoka treo cổ tự tử
ngày 28/3/2007 sau khi có nhiều nghi vấn liên quan đến vấn đề chia chác tiền
bạc của ông ta. Cuộc bầu cử bán phần Thượng viện ngày 29/7/2007, đảng Dân chủ
đánh bại đảng Dân chủ Tự do đương quyền, khiến Shinzo Abe tuyên bố tự chức.
Ngày
12/9/2007, Abe từ chức, và Yasuo Fukuda thay thế Abe cả hai chức lảnh tụ đảng
và Thủ tướng. Ngày 8/6/2008, một kẻ giết
người lái một chiếc xe tải loại nhỏ tông vào đám đông khách bộ hành tại khu vực
buôn bán Akihabara, rồi nhảy ra khỏi xe dùng dao đâm chết một người. Có 7 người
thiệt mạng và 10 người bị thương. Hung thủ là Tomohiro Kato bị bắt tại chỗ.
Tomohiro Kato 25 tuổi, khai rằng “tôi tới Akihabara để giết người, hể gặp ai là
tôi giết”. Đương sự có phát họa kế hoạch giết người trên mạng Internet. Tiếc
rằng, thông diệp nầy không được phát giác kịp thời. Bị chỉ trích không có khả
năng vựt dậy nền kinh tế, và tỷ lệ tăng trương thấp, ngày 1/9/2008 Yasuo Fukuda
từ chức, và ngày 21/9, đảng Dân chủ Tự do chọn nguyên Bộ trưởng Ngoại giao Taro
Aso thay thế Fuhuda.
Cuộc bầu cử
Quốc hội ngày 30/8/2009, đảng Dân chủ đối lập giành thắng lợi, và lảnh tụ đảng
Yukio Hatoyama, 62 tuổi trở thành Thủ tướng. Ngày 8/6/2010, do sút giảm sự ủng
hộ của công chúng, Yukio từ chức, và Bộ trưởng Tài chánh Naoto Kan được chỉ
định làm Thủ tướng. Do trận “động đất-sóng thần” mùa hè 2011, Naoto Kan lại
phải từ chức, và Noda Yoshihiko lên làm Thủ tướng.
B. Nhật bản ngày nay.
Hiến pháp và
chính quyền: Hiến pháp Nhật Bản năm 1947 thay thế Hiến pháp Meiji năm 1889.
Hiến pháp mới xác định, người dân Nhật Bản tự họ tuyên hứa sẽ thực hiện và phát
triển tư tưởng Dân chủ và Hòa bình. Hoàng đế là biểu tượng thống nhất của tất
cả người Nhật. Quyền lực tối cao thuộc về người dân. Các quyền cơ bản của công
dân được bảo đảm. Hoàng đế không có quyền can thiệp vào công việc của chính
quyền. Quyền hành pháp trao cho Thủ tướng chính phủ, là lảnh tụ đảng chiếm đa
số ghế tại Hạ viện. Quyền lập pháp trao cho Quốc hội. Quốc hội gồm Hạ viện và
Thượng viện. Hạ viện có 500 đại biểu, và kể từ kỳ bầu cử tháng 6/2000 giảm
xuống còn 480 đại biểu, trong đó 300 ghế được bầu lên từ các khu vực bầu cử, và
180 ghế đại diện từ 11 vùng tự trị theo tỷ lệ cân xứng. Nhiệm kỳ của các đại
biểu Hạ viện là 4 năm. Thượng viện có 252 nghị sỉ, kể từ kỳ bầu bán phần nghị
sĩ năm 2001 giảm xuống còn 247, và hiện nay là 242 nghị sĩ, trong đó 146 được
bầu lên từ các quận hoặc huyện, và 96 nghị sĩ đại diện các đảng chính trị theo
một tỷ lệ thích ứng. Cứ 3 năm bầu lại một phần hai tổng số nghị sĩ.
Lưu ý: (1) Cá
nhân Dân biểu hoặc Nghị sĩ nhận quà hiến tặng từ bất cứ ai bị sa thải khỏi Quốc
hội, và khai trừ khỏi đảng ít nhất 5 năm. (2) Luật bầu cử tháng 10/2000, trao
cho cử tri được quyền chọn ứng viên cá nhân hay đảng phái để bầu vào Thượng
viện. (3) Khi trở thành Thủ tướng, tháng 4/2001 Junichiro Koizumi lập một toán
chuyên gia nghiên cứu và giới thiệu phương án Thủ tướng Nhật Bản nên được bầu
lên bởi cử tri toàn quốc, nhưng hình như đã đi vào quên lãng. (4) Ngày
14/5/2007, Quốc hội thông qua dự án thay đổi Hiến pháp đưa ra “trưng cầu dân ý”
xóa điều cam kết từ bỏ vỏ trang quân sự ghi trong Hiến pháp Nhật Bản sau chiến
tranh thế giới II. Dự thảo luật sẽ hoàn tất để chính phủ tổ chức ‘trưng cầu dân
ý” vào đầu năm 2010. (5) Hoàng đế Nhật Bản hiện là Akihito, sinh ngày
23/12/1933, người kế thừa vua cha Hirohito ngày 7/1/1989 và chính thức lên ngôi
Hoàng đế ngày 12/11/1990. Luật kế thừa ngôi Vua phải là con cháu trai của Nhà
vua. Do vậy, người kế thừa ngôi Hoàng đế Nhật Bản sẽ là hoàng tử Hisahito.
Cư dân và lãnh
thổ: Con người: Dân số 126.804.000, dưới 15 tuổi 13,3%, trên 65 tuổi 22,6%. Mật
độ dân cư: 347,9 người/km2. Thành phố: 66,6%. Sắc tộc: Japanese 99,4%, Korean,
Chinese, và sắc tộc khác 1%. Ngôn ngữ: Japanese (chính), Ainu, Korean. Tôn
giáo: Shinto kết hợp Phật giáo 84%. Đất đai: Tổng diện tích: 377.915 km2. Diện
tích đất: 364.485 km2. Địa điểm: Quần đảo ngoài khơi bờ Đông Á. Quốc gia láng
giềng: Nam Triều tiên phía tây. Nga phía bắc. Địa thế: Nhật Bản gồm 4 nhóm đảo
chính: Honshu 227.327 km2, Hokkaido 78.042 km2. Kyushu 36.541 km2, và Shikoku:
18.249 km2. Bờ biển lỏm sâu vào bên trong nội địa dài 26.796 km2. Các đảo phía
bắc nối liền với núi Sakhalin. Dảy núi Kunlun của Trung Quốc nối vào các đảo
phía nam. Các dảy núi giao nhau tại núi Alps Nhật Bản. Với một bề ngang rộng nó
tách ra băng qua đảo Honshu từ đông sang tây, nổi lên một nhóm núi lửa hầu hết
đã ngưng hoạt động kể cả núi Fuji cao 12.388 ft gần Tokyo. Thủ đô: Tokyo. Thành
phố đông dân: Tokyo 36.507.000, Osaka-Kobe 11.325.000, Nagoya 3.257.000, Fukuoka-Kitakyushu
2.809.000, Sapporo 2.673.000, Kyoto 1.806.000 cư dân.
Chính trị và
kinh tế: Loại chính quyền: Quân chủ lập hiến. Nguyên thủ quốc gia: Hoàng đế
Akihito, sinh 23/12/1933, nhậm chức 7/1/1989. Thủ tướng chính phủ: Noda
Yoshihiko, sinh ../../1957, nhậm chức: ../9/2011. Chính quyền địa phương: 47
quận. Ngân sách quốc phòng: 52,6 tỷ. Quân đội chính quy: 230.300. Kinh tế: Công
nghiệp: xe hơi, trang thiết bị điện, máy móc công cụ, nghiên cứu kim loại, và
luyện kim, tàu biển, hàng dệt, và chế biến thực phẩm. Nông sản: gạo, củ cải
đường, rau quả, trái cây. Tài nguyên: cá. Dự trữ nhiên liệu: 44,1 triệu thùng.
Đất nông nghiệp: 12%. Chăn nuôi: trâu bò 4.4 triệu, gà 288,5 triệu, dê 32.000,
heo 9,8 triệu, cừu 10.000. Đánh cá: 5,5 triệu tấn. Cung cấp điện: 1.015,2 tỷ
Kwh. Phân bố lao động và đóng góp vào Tổng sản lượng quốc gia: nông nghiệp 4%,
đóng góp 1%; công nghiệp 28%, đóng góp 26 dịch vụ 68%, đóng góp 73%.
Tài chính và
an sinh: Đơn vị tiền tệ: Đồng Yen (tháng
9/2010: 83,7=1USD). Tổng sản lượng nội địa: 4.200 tỷ. Bình quân đầu người: 32.700.
Tăng trưởng: giảm -5,3%. Nhập khẩu: 499,7 tỷ. Bạn hàng: Trung quốc 20,5%, Hoa
kỳ 12%, Saudi Arabia 6,4%, United Arabia Emirates 5,5%, Australia 4,8%, South
Korea 4,7%, Indonesia 4,2%. Xuất khẩu: 542,3 tỷ. Bạn hàng: Hoa Kỳ 22,8%, China
14,3%, South Korea 7,8%, Taiwan 6,8%, Hồng Kông 5,6%. Du lịch: 10,8 tỷ. Ngân
sách quốc gia: 2.100 tỷ. Dự trữ ngoại tệ: 652 tỷ. Dự trữ vàng: 24,6 triệu ozt.
Nợ nước ngoài: không có số liệu. Giá cả tiêu thụ: tăng -1,4%. Vận chuyển: Đường
xe lửa: 23.468 km. Bằng xe hơi: 57,1 triệu lượt xe, xe hơi cá nhân 16,9 triệu.
Bằng máy bay: bay 151,7 tỷ km, sân bay 145. Hải cảng: 7- Tokyo, Kobe, Osaka,
Nagoya, Chiba, Kawasaki, Hakodate. Truyền thông: Máy truyền hình: 719/1000 cư
dân. Radio: 956/1000. Điện thoại: 34,9/100. Internet: 76,8/100 người sử dụng. Sức
khoẻ y tế: Tuổi thọ: nam 78,9, nữ 85,7. Sinh xuất: 7,4/1000 cư dân. Tử xuất:
9,8/1000. Tăng dân số tự nhiên: -0,2%. Chết trước tuổi trưởng thành: 2,8/1000
trẻ sơ sinh. Nhiểm bệnh AIDS: 0,1%. Giáo dục: tuổi cưỡng bức đi học 6-15, biết
đọc biết viết 99%, trung học 100%, đại học 44%.
Tham gia tổ
chức quốc tế: Liên Hiệp Quốc (UN) và tất cả các cơ quan đặc biệt của nó. Hợp
tác Kinh tế Châu Á - Thái Bình Dương (APEC), Hợp tác Kinh tế và Phát triển
(OECD).
5. TAIWAN - REPUBLIC OF CHINA (ĐÀI LOAN).
A. Tiến trình phát triển.
Phần lớn
người định cư Trung Quốc lập nghiệp ở Đài Loan trong thế kỷ 17. Đài Loan được
cai trị từ đất liền Trung Quốc. Hòa Lan cai trị nó từ năm 1620 đến 1662. Đài
Loan còn được gọi là Formosa bị Nhật Bản chiếm trị từ năm 1895 đến 1945. Hai
triệu người ủng hộ chính quyền Quốc Dân Đảng (Kuomintang) chạy ra đảo năm 1949,
sau khi Cộng sản chiếm toàn bộ nội địa. Họ xây dựng Taiwan như là thủ đô của
chính phủ Cộng hòa Trung Quốc (Republic of China). Ngày 15/12/1978, Hoa Kỳ công
nhận Cộng hòa Nhân dân Trung Quốc, cắt đứt ràng buộc ngoại giao với chính phủ
Đài Loan, chỉ duy trì sự liên hệ qua các văn phòng đại diện. Chương trình cải
cách ruộng đất do Hoa Kỳ trợ giúp, cùng với đầu tư và giáo dục miễn phí ở mọi
cấp đã đưa Đài Loan có được những thuận lợi to lớn về công nghiệp, nông nghiệp
và tiêu chuẩn sống.
Năm 1987, bải
bỏ lệnh thiết quân luật sau 38 năm (từ 1949) tồn tại. Và năm 1991, chấm dứt
tình trạng khẩn trương kéo dài hơn 43 năm qua. Ngày 23/3/1996, lần đầu tiên Đài
Loan tổ chức bầu Tổng thống trực tiếp. Trận động đất ngày 21/9/1999, giết chết
hơn 2.300 người và hàng chục ngàn người bị thương. Cuộc bầu cử Tổng thống ngày
18/3/2000, Trần Thủy Biển (Chen Shui-bian) lãnh tụ đảng Dân chủ Cấp tiến ủng hộ
Đài Loan độc lập đắc cử, chấm dứt hơn 50 năm cầm quyền của Quốc Dân Đảng. Cả
hai chính quyền Đài Bắc, và Bắc Kinh đều xem Đài Loan như một phần của Trung
Quốc kéo dài. Dù vậy, một cách chính thức người Đài Loan thể hiện dấu hiệu khởi
đầu từ một chính sách trong tháng 7/1999, rằng họ cự tuyệt nỗ lực của Băc Kinh
tái thống nhất quốc gia, kể cả gây sức ép về quân sự.
Nhưng các
ràng buộc về kinh tế thì được mở rộng vào trong nội địa trong suốt thập niên
1990. Từ năm 2000, Đài Bắc bắn tin sẽ có một cuộc “trưng cầu dân ý” để đảo quốc
trở thành một quốc gia độc lập, cái mà chính quyền từ đất liền Bắc Kinh luôn
lên tiếng đe dọa sẽ dùng cả vủ lực nếu cần. Đài Loan chỉ có quan hệ ngoại giao
với 26 quốc gia, nhưng có một nền kinh tế mạnh và là một trong 10 nước thặng dư
tư bản xuất khẩu lớn của thế giới. Ngày 19/3/2004, Trần Thủy Biển bị thương
trong vụ mưu sát, chỉ một ngày trước khi đắc cử Tổng thống nhiệm kỳ II. Cuộc
bầu cử 300 đại biểu Hạ viện ngày 14/5/2005, đảng Dân chủ Cấp tiến dẫn đầu chiếm
127 ghế, đảng Quốc gia về nhì chiếm 117 ghế. Và cuộc bầu cử bán phần Thượng
viện ngày 13/1/2008, đảng Quốc gia chiếm 81 ghế, và đảng Dân chủ Cấp tiến 27
ghế.
Trong cuộc
bầu cử Tổng thống ngày 22/3/2008, Mã Cửu Anh (Ma Ying-jeou), đảng Quốc gia đắc
cử với 58,4% phiếu bầu. Ứng viên Tạ Trường Đình (Frank Hsieh) đảng Dân chủ Cấp
tiến 41,6% phiếu bầu. Ngày 12/11 nguyên tổng thống Trần Thủy Biển bị tống giam
vì tội tham nhủng, và bị kết án tù chung thân trong phiên xử ngày 11/9/2009.
Trận cuồng phong Morahot ngày 7-9/8 gây ngập lụt và đất chuồi làm hơn 700 người
chết.
Lưu ý:
Các đảo
Penghu (Pescadores) có diện tích 126 km2 và 91.785 cư dân nằm giữa Đài Loan và
đất liền, đảo Quemoy và Matsu có 53.286 cư dân nằm ngoài khơi đất liền đều nằm
dưới sự cai quản của chính phủ Đài Loan.
B. Đài Loan ngày nay.
Hiến pháp và
chính quyền: Học thuyết Quốc gia, Dân chủ, và Xả hội của Bác sỉ Tôn Dật Tiên
(Dr Sun Yat-sen) người khai sinh nền Cộng hòa Trung Quốc là nền tảng của Hiến
pháp Đài Loan. Theo đó chính quyền chia thành 3 cấp: cấp Trung ương, cấp Tỉnh,
và cấp Địa phương. Mỗi cấp có một số quyền được ghi rõ trong Hiến pháp. Chính
quyền Trung ương gồm Tổng thống và 5 cơ quan gọi là Hành pháp, Lập pháp, Tư
pháp, Kiểm tra, và Điều hành. Nghị viện Quốc gia chỉ bầu chọn đặc biệt cho nhiệm
vụ duy nhất là tu chỉnh Hiến pháp. Bắt đầu từ lần bầu cử cơ quan Lập pháp thứ 7
vào ngày 12/1/2008, số đại biểu của cơ quan nầy chỉ còn 113 thay vì 225 như
trước đó. Từ ngày ban hành Hiến pháp Đài Loan chưa một lần tu chỉnh. Vấn đề nảy
sinh phải giải quyết là nhiệm kỳ Tổng thống không kéo dài ra sao do quy định
của cơ quan Lập pháp hay cơ quan Kiểm tra. Cơ quan Lập pháp thì có quyền cách
chức Thủ tướng do Tổng thống chỉ định, trong khi Tổng thống lại có quyền giải
tán cơ quan Lập pháp. Do vậy, giải pháp giải quyết là cơ quan Lập pháp chỉ hạn
chế trong phạm vi quyền hạn của mình.
Cư dân và
lãnh thổ: Con người: Dân số: 23.204.000, dưới 15 tuổi 16,2,%, trên 65 tuổi 10,8%.
Mật độ dân cư: 713,7 người/km2. Thành phố: 75%. Sắc tộc: Taiwanese 84%, đất
liền Chinese 14%, cư dân bản địa 2%. Ngôn ngữ: Mandarin Chinese (chính),
Taiwanese, thổ ngữ Hakka. Tôn giáo: Phật giáo, Khổng giáo, và Lão giáo 93%,
Thiên chúa giáo 5%. Đất đai: Tổng diện tích 35.980 km2. Diện tích đất: 32.260 km2.
Địa điểm: ngoài khơi phía đông nam bờ Trung Quốc giữa biển Đông và nam Trung
Quốc. Quốc gia láng giềng: gần Trung Quốc nhất. Địa thế: dảy núi tạo thành
xương sống của đảo, một nửa phía đông, ngập nước với đá cheo leo hiểm trở.
Triền dốc phía tây đất bằng phẳng phì nhiêu, rất tốt cho gieo trồng. Thủ đô:
Taipei. Thành phố đông dân: Taipei 2.630.000, Kaohsiung 1.598.000, Taichung 1.221.000
cư dân.
Chính trị và
kinh tế: Loại chính quyền: Cộng hòa. Nguyên thủ quốc gia: Tổng thống Mã Cửu Anh
(Ma Ying-jeou, sinh 13/7/1950, nhậm chức 20/5/2008. Thủ tướng chính phủ: Wu
Den-yih, sinh 30/1/1948, nhậm chức 10/9/2009. Chính quyền địa phương: 16 tỉnh,
5 khu vực và 2 thành phố tự trị hành chánh. Ngân sách quốc phòng: 9,7 tỷ. Quân
đội chính quy: 290.000. Kinh tế: Công nghiệp: điển tử, hóa dầu, hoá chất, hàng
dệt, luyện kim, máy móc, xi măng, chế biến thực phẩm. Nông sản: gạo, bắp, trà,
rau quả, trái cây. Tài nguyên: than đá, khí đốt, đá vôi, đá hoa cương, hợp chất
chống lửa (asbestos). Dự trử nhiên liệu: 2,4 triệu thùng. Đất nông nghiệp: 24%.
Đánh cá: 1,2 triệu tấn. Cung cấp điện: 225 tỷ Kwh. Phân bố lao động và đóng góp
vào Tổng sản lượng quốc gia: nông nghiệp 5,1%, đóng góp 2%; công nghiệp 36,8%,
đóng góp 30%; dịch vụ 58,1%, đóng góp 68%.
Tài chính và
an sinh: Đơn vị tiền tệ: Đồng Đola Đài
Loan mới (tháng 9/2010: 31,4=1USD). Tổng sản lượng nội địa: 735,4 tỷ. Bình quân
đầu người: 32.000. Tăng trửơng: -0,9%. Nhập khẩu: 172,7 tỷ. Bạn hàng: Nhật Bản
23%, Trung Quốc 11,9%, Hoa kỳ 10,9%, South Korea 7,2%, Saudi Arabia 4,9%. Xuất
khẩu: 203,4 tỷ. Bạn hàng: China 22,5%, Hồng Kông 15,7%, Hoakỳ 15%, Japan 7,3%.
Du lịch: 5,9 tỷ. Ngân sách quốc gia: 57,2 tỷ. Dự trử ngoại tệ: 222,1 tỷ. Dự trử
vàng: không có số liệu. Nợ nước ngoài: 55,5 tỷ. Giá cả tiêu thụ: không có số
liệu. Vận chuyển: Đường xe lửa: 1.588 km. Bằng xe hơi: không có số liệu. Bằng
máy bay: không có số liệu, sân bay 38. Hải cảng: 4- Kaohsiung, Chilung,
Hualian, Taichung. Truyền thông: Máy truyền hình 327/1000 cư dân, Radio
402/1000. Điện thoại: 63,2/100. Internet: 69,8/100 người sử dụng. Sức khoẻ y
tế: Tuổi thọ: nam 75,3, nữ 81,2. Sinh xuất: 9/1000 cư dân. Tử xuất: 6,9/1000.
Tăng dân số tự nhiên: 0,2%. Chết trước tuổi trưởng thành: 5,3 /1000 trẻ sơ
sinh. Nhiểm bệnh AIDS: không có số liệu. Giáo dục: tuổi cưỡng bức đi học 6-15,
biết đọc biết viết 96,1%, trung học và
đại học không có số liệu.
Tham gia tổ
chức quốc tế: Hợp tác Kinh tế Châu Á - Thái Bình Dương (APEC).
6 quốc gia
khu vực Trung Á chiếm 5.567.567 km2 diện tích đất, và 63.896.000 cư dân. Quốc
gia lớn nhất là Kazakhstan chiếm 2.724.900 km2 và quốc gia nhỏ nhất Tajikistan
chiếm 143.100 km2. Uzbekistan có dân số đông nhất trên 27 triệu, và nước có dân
số thấp nhất là Mongolia chỉ trên dưới 3 triệu cư dân. Ngoại trừ Mongolia 80%
cư dân là tín đồ Phật giáo. Tebetan, Kazakhstan trên dưới 40% theo Hồi giáo và
trên dưới 40% theo Thiên chúa giáo. 4 quốc gia còn lại là tín đồ Hồi giáo
khoảng 80%. Về thể chế chính trị, mặc dù là những nước có đông tín đồ Hồi giáo,
nhưng nhà nước không rập khuôn theo luật Hồi giáo. Tất cả các nước đều theo thể
chế Cộng hòa. 6 quốc gia trong khu vực Trung Á gồm: Kazakhstan, Uzbekistan, Turkmenistan,
Tajikistan, Kyrgyzstan, và Mongolia.
A. Tiến trình phát triển.
Là vùng đất
đặt dưới sự cai trị của Mông Cổ trong thế kỷ 13, và từng bước dưới sự cai trị
của Nga từ 1730 đến 1853. Nó được thâu nhận vào Liên bang Xô viết như một Cộng
hòa thành viên năm 1936. Kazakhstan tuyên bố độc lập ngày 16/12/1991. Mười ngày
sau nó trở thành một quốc gia độc lập khi Liên bang Xô viết tan rã ngày
26/12/1991. Lãnh tụ đảng Nursultan Nazarbayev được bầu làm Tổng thống không có
đối thủ. Trong cuộc bầu cử Quốc hội ngày 7/3/1994, bị nhiều chỉ trích bởi các
quan sát viên thông tín quốc tế. Ngày 14/2 Kazakhstan đồng ý phá hủy các hỏa
tiển mang đầu đạn hạt nhân và tuân thủ vô điều kiện với hiệp ước cấm sản xuất
vũ khí hạt nhân năm 1968. Tư nhân hóa đất đai được luật pháp thừa nhận ngày
26/10/1995, Hoa Kỳ cam kết sẽ tăng viện trợ cho .
Astana trước
đây là Akmola được hiến tặng như là thủ đô mới của quốc gia ngày 9/6/1998. Tổng
thống Nazarbayev tái chiến thắng trong cuộc bầu cử nhiệm kỳ Tổng thống 7 năm
ngày 10/1/1999, sau khi đối thủ chính khách hàng đầu của ông ta, nguyên Thủ
tướng Akezhan Kazhegeldin bị ngăn chặn vì lý do kỷ thuật. Cuộc bầu cử Tổng
thống ngày 4/12/2005, Nazarbayev lại đắc cử nhiệm kỳ thứ 3, với 91,2% phiếu bầu
trên 4 ứng cử viên khác. Ngày 18/5/2007, Quốc hội thông qua tu chính Hiến pháp
cho phép Nazarbayev tái ứng cử Tổng thống không giới hạn nhiệm kỳ. Tại cuộc bầu
cử Quốc hội ngày 18/8/2007, đảng Nur Otan của Tổng thống Nazarbayev giành chiến
thắng chiếm tất cả 88 ghế, 6 đảng khác không chiếm được ghế nào. Ngày 5/7/2010,
Kazakhstan ký với Nga và Belarus hiệp ước thống nhất thuế quan.
B. Kazakhstan ngày nay.
Hiến pháp và
chính quyền: Trong một phán quyết, Tòa án Hiến pháp tuyên bố cuộc bầu cử Quốc
hội năm 1994 là vô giá trị. Ngày 11/3/1995, Tổng thống Nazarbayev giải tán Quốc
hội, và bắt đầu cai trị bằng sắc lệnh. Ngày 30/8/1995, trong một cuộc ‘trưng
cầu dân ý” cử tri chấp nhận Hiến pháp mới. Theo đó, một Quốc hội lưởng viện gồm
Hạ viện và Thượng viện được thành lập. Hạ viện có 77 đại biểu, trong đó 67 do
dân bầu trực tiếp từ các khu vực bầu cử và 10 được bầu từ các đảng phái. Thượng
viện có 39 nghị sĩ, chia ra 16 tỉnh mỗi tỉnh 2 nghị sĩ, và 7 nghị sĩ do Tổng
thống chỉ định. Tổng thống có quyền cai trị bằng sắc lệnh, giải tán Quốc hội
nếu Quốc hội không tín nhiệm, hoặc phản đối 2 lần việc đề cử Thủ tướng của Tổng
thống. Tu chỉnh Hiến pháp tháng 10/1998 tăng nhiệm kỳ Tổng thống thành 7 năm.
Tháng 5/2007,
một lần nữa tu chỉnh Hiến pháp cho phép chức vụ Tổng thống không giói hạn nhiệm
kỳ, và mỗi nhiệm kỳ rút xuống còn 5 năm, có hiệu lực thi hành kể từ năm 2012.
Khi chọn Thủ tướng Tổng thống phải tham khảo ý kiến của Quốc hội. Tu chỉnh Hiến
pháp còn tăng số ghế tại Hạ viện từ 77 đại biểu lên thành 107 đại biểu. Thượng
viện từ 39 lên thành 47 nghị sỉ trong đó tăng nghị sỉ do Tổng thống bổ nhiệm
tăng từ 7 lên thành 15 nghị sĩ.
Cư dân và
lãnh thổ: Con người: Dân số: 15.460.000, dưới 15 tuổi 22,6%, trên 65 tuổi 7,6%.
Mật độ dân cư: 5,7 người/km2. Thành phố: 58,2%. Sắc tộc: Kazakh 53%, Russian
30%, Ukrainian 4%, Uzbek 3%, German 2%, Uighur 1%. Ngôn ngữ: Kazakh, Russian
(chính cả hai), Ukrainian, Germam, Uzbek. Tôn giáo: Hồi giáo 47%, Chính thống
giáo Nga 44%. Đất đai: Tổng diện tích 2.724,900 km2. Diện tích đất: 2.699.700
km2. Địa điểm: vùng Trung Á. Quốc gia láng giềng: Liên bang Nga phía bắc. Trung
Quốc phía đông. Kyrgyzstan, Uzbekistan, Turkmenistan phía nam. Biển Caspian
phía tây. Địa thế: kéo dài từ vùng thấp của lưu vực sông Volga ở Châu Âu tới
dãy núi Altay trên biên giới Trung Quốc. Thủ đô: Astana. Thành phố đông dân:
Almaty 1.360.000, Astana 650.000 cư dân.
Chính trị và
kinh tế: Loại chính quyền: Cộng hòa.
Nguyên thủ quốc gia: Tổng thống Nursultan A. Nazarbayev, sinh 6/7/1940, nhậm
chức tháng 4/1990 (tái bầu 1999, 2005). Thủ tướng chính phủ: Karim Massimov,
sinh ../../1965, nhậm chức 10/1/2007. Chính quyền địa phương: 14 tỉnh và 3 thành
phố. Ngân sách quốc phòng: 1,3 tỷ. Quân đội chính quy: 49.000. Kinh tế: Công
nghiệp: lọc dầu, khai thác mỏ, luyện kim, kim loại không gỉ, máy móc nông
nghiệp, điện xe hơi, vật liệu xây dựng, xây dựng. Nông sản: lúa mỳ, sợi bông,
len. Tài nguyên: dầu lửa, khí đốt, than đá, sắt, quặng sắt, đồng, nickel,
nguyên tố kim loại trắng bạc, chì, nhôm, vàng, uranium. Dự trữ nhiên liệu: 30
tỷ thùng. Đất nông nghiệp: 8%. Chăn nuôi: trâu bò 5,7 triệu, gà 28,1 triệu, dê
2,3 triệu, heo 1,3 triệu, cừu 13 triệu. Đánh cá: 35.676 tấn. Cung cấp điện: 74,6
tỷ Kwh. Phân bố lao động và đóng góp vào Tổng sản lượng quốc gia: nông nghiệp 31,5%,
đóng góp 8%; công nghiệp 18,4%, đóng góp 38%; dịch vụ 50,1%, đóng góp 54%.
Tài chính và
an sinh: Đơn vị tiền tệ: Đồng Tenge
(tháng 9/2010: 147,2=1USD). Tổng sản lượng nội địa: 181,9 tỷ. Bình quân đầu
người: 11.800. Tăng trưởng: 1%. Nhập khẩu: 28,8 tỷ. Bạn hàng: Nga 36,8%, Trung
Quốc 19,5%, Germany 7,4%. Xuất khẩu: 44 tỷ. Bạn hàng: Đức 12,4%, Russia 11,6%,
China 10,9%, Italy 10,5%, Pháp 7,4%. Du lịch: 1,0 tỷ. Ngân sách quốc gia: 22,4
tỷ. Dự trữ ngoại tệ: 13,2 tỷ. Dự trữ vàng: 2,2 triệu ozt. Nợ nước ngoài: 26,0
tỷ. Giá cả tiêu thụ: tăng 7,3%. Vận chuyển: Đường xe lửa: 13.697 km. Bằng xe
hơi: 1,4 triệu lượt xe, xe cá nhân: 368.600. Bằng máy bay: bay 1,9 tỷ km, sân
bay 65. Hải cảng: 2- Aqtau, Atyrau. Truyền thông: Máy truyền hình 240/1000 cư
dân, Radio: 359/1000. Điện thoại: 24,1/100. Internet: 33,9/100 người sử dụng. Sức
khoẻ y tế: Tuổi thọ: nam 62,9, nữ 73,8. Sinh xuất: 16,7/1000 cư dân. Tử xuất:
9,4/1000. Tăng dân số tự nhiên: 0,7%. Chết trước tuổi trưởng thành: 24,9/1000
trẻ sơ sinh. Nhiểm bệnh AIDS: 0,1%. Giáo dục: tuổi cưỡng bức đi học 7-17, biết
đọc biết viết 99,6%, trung hoc 90%, đại học 23%.
Tham gia tổ
chức quốc tế: Liên Hiệp Quốc (UN) và các tổ chức phụ thuộc của nó như Ngân hàng
Thế giới (IBRD), Lao động Thế giới (ILO), Quỹ tiền tệ Thế giới (IMF), Hàng hải
Thế giới (IMO), và Y tế Thế giới (WHO). Các quốc gia độc lập vì thịnh vượng
(CIS). Hợp tác An ninh Châu Âu (OSCE).
A. Tiến trình phát triển.
Vùng
Uzbekistan bị lấn chiếm bởi Mông Cổ dưới thời Genghis Khan năm 1220. Trong thế
kỷ 14 nó trở thành trung tâm của một đế quốc người bản địa, đó là đế quốc
Timurids. Hàng thế kỷ sau đó một số lãnh chúa Phong kiến Hồi giáo xuất hiện.
Bắt đầu từ thế kỷ 19 quân đội Nga xâm chiếm. Uzbekistan trở thành một Cộng hòa
trong Liên bang Xô viết năm 1925. Ngày 29/8/1991 Uzbekistan tuyên bố độc lập,
và trở thành một quốc gia độc lập, khi Liên bang Xô viết tan rã ngày
26/12/1991. Sau đó chính quyền Uzbekistan được lãnh đạo bởi những người cọng
sản cũ. Quân đội Hoa Kỳ sử dụng một số căn cứ trong lãnh thổ Uzbekistan khi
tiến hành đổ quân và đánh chiếm Afghanistan năm 2001. Ngày 12/3/2002, Hiệp ước
quân sự và kinh tế được ký giữa Uzbekistan và Hoa Kỳ thắt chặt mối ràng buộc
nhiều hơn giữa hai nước.
Từ tháng 3
đến tháng 7/2004, dân quân Hối giáo mở các cuộc tấn công giết chết trên 50
người. Viện dẩn không tôn trọng nhân quyền, ngày 13/7 Hoa Kỳ cắt giảm 18 triệu
USD viện trợ cho Uzbekistan. Công ty sản xuất dầu lửa của Nga lớn đứng hàng thứ
hai thế giới là OAO Lukoi đã ký với chính phủ Uzbekistan một hợp đồng khai thác
khí đốt lên tới 1 tỷ USD. Ngày 31/7/2004, dân quân Hồi giáo thực hiện hai vụ
đặt bom nhắm vào hai tòa đại sứ Hoa Kỳ và Israel tại thủ đô Tashkent. Cuộc bầu
cử Quốc hội ngày 26/12/2004 và 9/1/2005, đảng Dân chủ Tự do dẫn đầu chiếm 41/120
ghế, kế đến là đảng Dân chủ Nhân dân 28 ghế. Sau vụ những người bất đồng chính
kiến có vỏ trang nổi lên đòi dân chủ, tôn trọng nhân quyền tại Adizhan phía
đông Uzbekistan tấn công vào một trại giam giải phóng hàng trăm tù nhân.
Các cuộc biểu
tình đòi dân chủ tiếp tục lan nhanh, ngày 12 và 13/5/2005, lực lượng an ninh nổ
súng vào đám đông người biểu tình làm chết hàng trăm người. Tổng thống Karimov
còn ra lệnh đàn áp thẳng tay các tổ chức hoạt động cho nhân quyền. Tức giận
trước việc chính phủ Mỹ kêu gọi một cuộc điều tra quốc tế vào cuộc làm rõ vụ nổ
súng ghi trên, Karimov ra lệnh đóng cửa căn cứ không quân tại Karshi-Khanabad,
nơi Hoa Kỳ dùng làm căn cứ tiến hành oanh tạc Afghanistan. Hoa Kỳ hoàn toàn rút
khỏi căn cứ vào ngày 21/11/2005. Sau gần một tuần họp thượng đỉnh tại Moscow,
hai Tổng thống Kaeimov và Putin đã ký một hiệp ước hợp tác quân sự giữa
Nga-Uzbekistan. Tại cuộc bầu cử Tổng thống ngày 23/12/2007, đương kim Tổng
thống Karimov đắc cử (nhiệm kỳ 3) với 88,1% phiếu bầu trên chân 3 ứng viên khác.
Ngày 13/10/1008, Liên hiệp châu Âu tháo bỏ lệnh cấm vận áp đặt lên Uzbekistan
năm 2005.
B. Uzbekistan ngày nay.
Hiến pháp và
chính quyền: Hiến pháp ngày 8/12/1992 xác định Uzbekistan là một chính thể đa
nguyên dân chủ. Chức vụ Tổng thống chỉ giới hạn trong 2 nhiệm, mỗi nhiệm kỳ 5
năm. Tu chỉnh Hiến pháp được cử tri chấp nhận trong cuộc “trưng cầu dân ý”
tháng 1/2002. Theo đó thì, nhiệm kỳ tổng thống từ 5 năm tăng thành 7 năm; Và,
Quốc hội từ một viện thành lưởng viện. Tháng 1/2005, Quốc hội bắt đầu chuyển
đổi bằng việc thành lập Thượng viện với 100 nghị sĩ, trong đó 84 nghị sĩ được
bầu từ các Hội đồng Lập pháp cấp Vùng, Khu vực, và Thành phố. Còn Hạ viện thì
giảm số đại biểu từ 250 xuống còn 100 đại biểu cũng do dân bầu từ các khu vực
bầu cử với nhiệm kỳ 5 năm. Lưu ý: Mặc dù tu chỉnh Hiến pháp đưa ra trung cầu
dân ý tháng 1/2002, nhưng hầu hết các đại biểu Quốc hội bấy giờ ủng hộ Tổng
thống Karimov, nên đã chấp nhận nhiệm kỳ 7 năm cho Tổng thống Karimov. Và vì
luật bầu cử Tổng thống quy định tháng 12, do vậy tháng 12/2007, Karimov mới bắt
đầu nhiệm kỳ thứ 2, mặc dù ông ta làm Tổng thống từ năm 1990.
Cư dân và
lãnh thổ: Con người: Dân số 27.865.000, dưới 15 tuổi 27,3%, trên 65 tuổi 4,7%.
Mật độ dân cư: 65,5 người/km2. Thành phố: 36,3%. Sắc tộc: Uzbek 80%, Russian
6%, Tajik 5%, Kazakh 3%, Karakalpak 3%, Tatar 2%. Ngôn ngữ: Uzbek (chính),
Russian, Tajik. Tôn giáo: Hồi giáo: 88% (đa số hệ phái Sunni), chính thống
giáo: 9%. Đất đai: Tổng diện tích: 447.400 km2. Diện tích đất: 425.400 km2. Địa
điểm: vùng Trung Á. Quốc gia láng giềng: Kazakhstan phía bắc và tây. Kyrgyzstan
và Tajikistan phía đông. Afghanistan và Turkmenistan phía nam. Địa thế: Hầu hết
bằng phẳng và sa mạc. Thủ đô: Tashkent với 2.201.000 cư dân.
Chính trị và
kinh tế: Loại chính quyền: Cộng hòa. Nguyên thủ quốc gia: Tổng thống Islam A.
Karimov, sinh 30/3/1938, nhậm chức 24/3/1990 (tái bầu năm 2000, và 2007) .Thủ
tướng chính phủ: Shavkat Mirziyayev, sinh 1957, nhậm chức 11/12/2003. Chính
quyền địa phương: 12 vùng, 1 cộng hòa tự trị và 1 thành phố. Ngân sách quốc
phòng: không có số liệu. Quân đội chính quy: 67.000. Kinh tế: Công nghiệp: chế
biến thực phẩm, máy xây dựng, luyện kim, hóa chất. Nông sản: hạt ngũ cốc, sợi
bông, rau quả, trái cây. Tài nguyên: dầu lửa, khí đốt, than đá, đồng, Uranium,
vàng, bạc, chì, nhôm, nguyên tố kim loại trắng bạc. Dự trữ nhiên liệu: 594
triệu thùng. Đất nông ngiệp: 11. Chăn nuôi: trâu bò 7 triệu, gà 24,2 triệu, dê
2 triệu, heo 92.000, cừu 10,5 triệu.
Đánh cá: 7.200 tấn. Cung cấp điện: 47,4 tỷ Kwh. Phân bố lao động và đóng góp
vào Tổng sản lượng quốc gia: nông nghiệp 44%, đóng góp 18%; công nghiệp 20%,
đóng góp 36%; dịch vụ 36%, đóng góp 46%.
Tài chính và
an sinh: Đơn vị tiền tệ: Đồng Som (tháng 9/2010: 1.630=1USD). Tổng sản lượng
nội địa: 78,3 tỷ. Bình quân đầu người: 2.800. Tăng trưởng: 8,1%. Nhập khẩu: 9
tỷ. Bạn hàng: Nga 27,8%, South Korea 15,6%, Trung Quốc 10,4%H, Kazakhstan 7,3%,
Đức 7,1%, Ukraine 4,8%, Turkey 4,5%. Xuất khẩu:10,7 tỷ. Bạn hàng: Russia 23,9%,
Ba Lan 11,8%, Trung Quốc 10,5%, Thổ Nhỉ Kỳ 7,5%, Kazakhstan 6%, Uhraine 4,7%,
Bangladesh 4,4%. Du lịch: không có số liệu. Ngân sách quốc gia: 10,5 tỷ. Dự trữ
ngoại tệ: không có số liệu. Dự trữ vàng: không có số liệu. Nợ nước ngoài: 4,4
tỷ. Giá cả tiêu thụ: không có số liệu. Vận chuyển: Đường xe lửa: 3.948 km. Bằng
xe hơi: 865.000 lượt xe, xe hơi cá nhân: 14.500. Bằng máy bay: bay 4,5 tỷ km,
sân bay 33. Hải cảng: 1- Termiz. Truyền thông: Máy truyền hình: 280/1000 cư
dân. Radio: 465/1000. Điện thoại: 6,8/100. Internet: 17,1 triệu người sử dụng.
Sức khoẻ y tế: Tuổi thọ: nam 69,2, nữ 75,4. Sinh xuất: 17,5/1000 cư dân. Tử
xuất: 5,3/1000. Tăng dân số tự nhiên: 1,2%. Chết trước tuổi trưởng thành: 22,7/1000
trẻ sơ sinh. Nhiểm bệnh AIDS: 0,1%. Giáo dục: tuổi cưỡng bức đi học 6-18, biết
đọc biết viết 99,2% trung học 94%, đại học 36%.
Tham gia tổ
chức quốc tế: Liên Hiệp Quốc (UN) và các tổ chức phụ thuộc của nó như Ngân hàng
Thế giới (IBRD), Lao động Thế giới (ILO), Quỹ tiền tệ Thế giới (IMF), và Y tế
Thế giới (WHO). Các quốc gia độc lập vì Thịnh vượng (CIS). Hợp tác An ninh Châu
Âu (OSCE).
A. Tiến trình phát triển.
Là vùng đất
cư trú của bộ tộc du mục Turkic từ thế kỷ thứ 10. Nó là một phần của Nga năm
1881, và là một Cộng hòa của Liên bang Xô viết năm 1925. Turkmenistan tuyên bố
độc lập ngày 27/10/1991, và trở thành một quốc gia độc lập khi Liên bang Xô
viết tan rã ngày 26/12/1991. Là nơi có trữ lượng dầu lửa và khí đốt lớn,
Turkmenistan có được nhiều thuận lợi hơn các Cộng hòa Xô viết khác trước đây để
phát triển kinh tế. Đường xe lửa mới nối liền Iran và Turkmenistan khánh thành
ngày 13/5/1996. Quyền lực chính trị được đặt để vào đảng Cộng sản trước đây, và
Tổng thống Saparmurad Niyazov là người được kính trọng, bởi nhân cách mạnh mẽ
của ông ta. Năm 1999, Hội đồng Nhân dân cơ quan quyền lực tối cao Turkmenistan
ra tuyên bố chức vụ Tổng thống của Niyazov là suốt đời.
Niyazov còn
được trao tước hiệu “Turkmenbashi” người lảnh đạo tất cả người Turkmen. Tháng
7/2000, Niyazov ban hành Luật buộc tất các viên chức nhà nước phải nói tiếng
Turkmen. Ngày 25/11/2002, viện dẩn một âm mưu đảo chánh, chính quyền đàn áp
thẳng tay các nhóm chính trị đối lập với Niyazov. Cuộc bầu cử Hội đồng Nhân dân
ngày 7/4/2003, chỉ có đảng Dân chủ (nguyên là đảng Cộng sản) đương quyền độc
diển. Tại cuộc bầu cử 50 đại biểu Quốc hội ngày 19/12/2004 và ngày 9/1/2005,
cũng dưới hệ thống đó, đảng Dân chủ chiếm trọn 50 ghế. Niyazov bị đột quỵ về
chứng đau tim, và qua đời tháng 12/2006. Gurbanguly Berdymukhammedov kế tục làm
Quyền tổng thống.
Trong cuộc
bầu cử Tổng thống ngày 11/2/2007, Berdymukhammedov giành chiến thắng trên 5 ứng
cử viên khác, đắc cử với 89,2% phiếu bầu. Các quan sát viên quốc tế cho đây là
một cuộc bầu cử không tự do và thiếu công bằng.
B. Turkmenistan ngày nay.
Hiến pháp và
chính quyền: Hiến pháp mới có hiệu lực thi hành ngày 18/5/1992, quy định Tổng
thống là người đứng đầu ngành Hành pháp và cũng là nguyên thủ quốc gia. Quốc
hội có 50 đại biểu là cơ quan Lập pháp chính. Hội đồng Nhân dân gồm 2.507 thành
viên là cơ quan đại diện cao nhất. Nó bao gồm cả Quốc hội, Hội đồng Bộ trưởng,
Chánh án tòa án Tối cao, Viện trưởng Viện Công tố Nhà nước, và Chủ tịch các Hội
đồng địa phương. Hội đồng Nhân dân có nhiệm vụ giải thích Hiến pháp, xét lại
Đạo luật, và xem xét kiến nghị bải miển Tổng thống nếu ông ta không đủ khả năng
lảnh đạo Quốc gia. Trong cuộc “trưng cầu dân ý” ngày 16/1/1994, có tới 99,99%
cử tri chấp nhận kéo dài nhiệm kỳ của Tổng thống Niyazov đến năm 2002. Năm
1999, Hội đồng Nhân dân ra tuyên bố chức vụ Tổng thống của Niyazov là suốt đời.
Cư dân và lãnh
thổ: Con người: Dân số: 4.940.000, dưới 15 tuổi 28,2%, trên 65 tuổi 4,1%. Mật
độ dân cư: 10,5 người/km2. Thành phố: 49%. Sắc tộc: Turkmen 85%, Uzbek 5%,
Russian 4%, Kazakh 2%. Ngôn ngữ: Turkmen, Russian, Uzbek. Tôn giáo: Hồi giáo
89%, Chính thống giáo 9%. Đất đai: Tổng diện tích: 488.100 km2. Diện tích đất: 469/930
km2. Địa điểm: ở vùng Trung Á. Quốc gia láng giềng: Kazakhstan phía bắc.
Uzbekistan phía đông và bắc. Afghanistan và Iran phía nam. Địa thế: sa mạc Kara
Kum chiếm 80% diện tích. Biên giới phía tây là biển Caspian. Thủ đô: Ashgabat: 637.000
cư dân.
Chính trị và
kinh tế: Loại chính quyền: Cộng hòa. Nguyên thủ quốc gia và cầm đầu chính phủ:
Tổng thống Gurbanguly Berdymukhammedov, sinh 29/6/1957, nhậm chức 14/2/2007
(Quyền Tổng thống 21/12/2006). Chính quyền địa phương: 5 vùng. Ngân sách quốc
phòng: 84 triệu. Quân đội chính quy: 22.000. Kinh tế: Công nghiệp: khí thiên
nhiên, dầu lửa và sản phẩm dầu, chế biến thực phẩm, hàng dệt. Nông sản: hạt ngũ
cốc, sợi bông. Tài nguyên: dầu lửa, khí
đốt, than đá, lưu huỳnh, và muối. Dự trữ nhiên liệu: 600 triệu thùng. Đất nông
nghiệp: 5%. Chăn nuôi: trâu bò 1,9 triệu, gà 7 triệu, dê 900.000, heo 29.800,
cừu 15,5 triệu. Đánh cá: 145.016 tấn. Cung cấp điện: 14,1ỷ Kwh. Phân bố lao
động và đóng góp vào Tổng sản lượng quốc gia: nông nghiệp 48,2%, đóng góp 25%;
công nghiệp 14%, đóng góp 46%; dịch vụ 37,8%, đóng góp 29%.
Tài chính và
an sinh: Đơn vị tiền tệ: Đồng Manat (tháng 9/2010: 2,8=1USD). Tổng sản lượng
nội địa: 32,6 tỷ. Bình quân đầu người: 6.700. Tăng trưỏng: 6,1%. Nhập khẩu: 4,1
tỷ. Bạn hàng: United Arab Emirates 13,6%, Azerbaijan 11,8%, Thổ Nhỉ Kỳ 9,8%,
Ukraine 8%, Russia 8%, Đức 6,8%, Iran 6.7%, China 5,6%. Xuất khẩu: 6,7 tỷ. Bạn
hàng: Ukraine 47,1%, Iran 16,2%, Azerbaijan 4,3%. Du lịch: không có số liệu.
Ngân sách quốc gia: 1,6 tỷ. Dự trữ ngoại tệ: không có số liệu. Dự trữ vàng:
không có số liệu. Nợ nước ngoài: 2,4 tỷ. Giá cả tiêu thụ: không có số liệu. Vận
chuyển: Đường xe lửa: 2.439km. Bằng xe hơi: không có số liệu, xe hơi cá nhân
không có số liệu. Bằng máy bay: bay 1,9
tỷ km, sân bay 22. Hải cảng: 1-Turkmenbashi. Truyền thông: Máy truyền hình:
198/1000 cư dân. Radio: 289/1000. Điện thoại: 9,4/100. Internet: 1,6/100 người
sử dụng. Sức khoẻ y tế: Tuổi thọ: nam 65,3, nữ 71,3. Sinh xuất: 19,6/1000 cư
dân. Tử xuất: 6,3/1000. Tăng dân số tự nhiên: 1,3%. Chết trước tuổi trưởng
thành: 43,8/1000 trẻ sơ sinh. Nhiểm AIDS: 0,1%. Giáo dục: tuổi cưỡng bức đi học
6-15, biết đọc biết viết 99,5%, trung học 100%, đại học 20%.
Tham gia tổ
chức quốc tế: Liên Hiệp Quốc (UN) và các tổ chức phụ thuộc của nó như Lương
nông Thế giới (FAO), Ngân hàng Thế giới (IBRD), Lao động Thế giới (ILO), Quỹ
tiền tệ Thế giới (IMF), Hàng hải Thế giới (IMO), và Y tế Thế giới (WHO). Các
quốc gia độc lập vì Thịnh vượng (CIS) và Hợp tác An ninh Châu Âu (OSCE).
A. Tiến trình phát triển.
Có nhiều cộng
đồng người định cư trong vùng từ khoảng 3000 Trước công nguyên (TCN). Xuyên
suốt chiều dài lịch sử, nó từng bị xâm lăng của các thế lực Iran (Arabs),
Mongol, Uzbeks, Afghan, và Russians. Liên Xô nắm quyền thống trị vùng này
1918-1925. Năm 1924, Tajik cùng với Uzbek lập ra Cộng hòa Xô viết Xã hội Chủ
nghĩa khu vực Châu Á (ASSR). Năm 1929, tuyên bố tách ra thành Tajik Cộng hòa Xô
viết Xã hội Chủ nghĩa (Tajik SSR). Tajikistan tuyên bố độc lập ngày 9/9/1991 và
trở thành quốc gia độc lập ngày 26/12/1991 khi Liên bang Xô viết tan rã. Tổng
thống Cộng sản bảo thủ Rakhmon Nabiyev, bị buộc từ chức tháng 9/1992, bởi một
Liên minh Quốc gia-Hồi giáo và các đảng thân phương Tây. Tranh chấp giữa các
phe nhóm chính trị dẫn đến Cộng sản trở lại nắm quyền vào tháng 1/1993.
Hiến pháp mới
lập ra chế độ Tổng thống được dân chúng chấp nhận trong cuộc “trưng cầu dân ý”
ngày 6/11/1994. Đánh nhau giữa Hồi giáo (được trang bị bởi Afghanistan) và quân
trung thành với chính phủ (được Liên bang Nga hậu thuẩn) làm chết khoảng 55.000
người tính đến giữa năm 1997, bất chấp các thỏa ước hòa bình đã ký kết. Trong
cuộc “trưng cầu dân ý” tu chỉnh Hiến pháp ngày 26/9/1999, bao gồm cả việc hợp
pháp hóa các đảng chính trị Hồi giáo, được đa số cư dân chấp thuận. Cuộc bầu cử
Tổng thống mà các quan sát viên theo dỏi về nhân quyền gọi là một “trò hề” ngày
6/11/1999, Imomali Rakhmonov đắc cử. Ngày 22/6/2003, cử tri chấp nhận tu chỉnh
Hiến pháp cho phép Tổng thống Rakhmonov ứng cử chức vụ nầy đến năm 2020.
Cuộc bầu cử
63 đại biểu Quốc hội ngày 27/2/2005, đảng Dân chủ Nhân dân (PDPT) dẫn đầu chiếm
52 ghế, ứng viên độc lập chiếm 5 ghế, và đảng Cộng sản 4 ghế. Cuộc bầu cử Tổng
thống ngày 6/11/2006 bị phe đối lập tẩy chay, đương kim Tổng thống Rakhmonov
tái đắc cử vời 79,3% phiếu bầu. Bằng một sắc lệnh, Rakhmonov đổi tên ông ta là
Rakhmon thay cho tên Slavic, dánh dấu chấm dứt thời phụ thuộc Liên bang Xô
viết. Ngày 6/10/2008, trận động đất với cường độ 6,6 tại ngôi làng Nura làm 72
người chết, và trên 100 người bị thương hàng chục ngôi nhà sụp đổ. Tình trạnh
nghèo đói, và tham nhũng khắp nơi. Thu nhập quốc gia phần lớn từ tài trợ nước
ngoài, và tiền gởi về gởi các thanh niên xuất khẩu lao động.
B. Tajikistan ngày nay.
Hiến pháp và
chính quyền: Hiến pháp mới có hiệu lực thi hành tháng 11 năm 1994. Tổng thống
là nguyên thủ Quốc gia được dân bầu lên qua cuộc phổ thông đầu phiếu, với nhiệm
kỳ 5 năm. Tu chỉnh Hiến pháp năm 1999, tăng nhiệm kỳ tổng thống lên thành 7
năm, nhưng chỉ với một nhiệm kỳ duy nhất. Tháng 6/2003 bằng một cuộc “trưng cầu
dân ý”, nó cho phép Tổng thống Rakhmonov ứng cử chức vụ nầy thêm 2 nhiệm kỳ
nữa. Cụ thể nó cho phép Rakhmonov làm tổng thống cho đến năm 2020. Tổ chức Hợp
tác An ninh Châu Âu và Hoa Kỳ bày tỏ sự quan tâm sâu sắc về vấn đề có một không
hai trên thế giới nầy. Tajikistan có Quốc hội lưỡng viện Hạ viện gồm 63 đại
biểu trong đó 41 đại biểu bầu lên từ các khu vực bầu cử, và 22 đại diện cho các
địa phương tương ứng, với nhiệm kỳ 5 năm. Thượng viện gồm 34 nghị sỉ, trong đó
25 nghị sỉ chọn từ các Nghị viện địa phương, 8 ghế do Tổng thống bổ nhiệm, và 1
ghế dành riêng cho cựu tổng thống.
Cư dân và
lãnh thổ: Con người: Dân số 7.487.000, dưới 15 tuổi 34,1%, trên 65 tuổi 3,5%.
Mật độ dân cư: 52,9 người/km2. Thành phố: 26,3%. Sắc tộc: Tajik 80%, Uzbek 15%,
Russia 4%. Ngôn ngữ: Tajik (chính), Russian. Tôn giáo: Hồi giáo 90%, trong đó
hệ phái Sunni 85%, và hệ phái Shi’a 5%. Đất đai: Tổng diện tích: 143.100 km2.
Diện tích đất: 141.510 km2. Địa điểm: ở vùng Trung Á. Quốc gia láng giềng: Kyrgyzstan phía bắc. Uzbekistan phía tây và
bắc. Trung Quốc phía đông. Afghanistan phía nam. Địa thế: vùng núi non bao gổm
cả Pamirs, và hệ thống núi Trans-Alai. Thủ đô: Dashanbe: 704.000 cư dân.
Chính trị và
kinh tế: Loại chính quyền: Cộng hòa. Nguyên thủ quốc gia: Tổng thống Emomalii
Rakhmonov, sinh 5/10/1952, nhậm chức 19/11/1992 (tái bầu 1994,1999,2006). Thủ
tướng chính phủ: Akil Akilov, sinh 2/2/1944, nhậm chức 20/12/1999. Chính quyền
địa phương: 2 vùng hành chánh và 1 khu vực tự trị. Ngân sách quốc phòng: 80
triệu. Quân đội chính quy: 8.800. Kinh tế: Công nghiệp: luyện kim loại nhôm,
kim loại nặng, chì, hóa chất, lọc dầu, máy công cụ, phân bón hóa học, dầu thực
vật. Nông sản: hạt ngũ cốc, sợi bông, rau quả, trái cây, và nho. Tài nguyên:
Thủy điện, dầu khí uranium, than nâu,
chì, kim loại cứng hơi trắng xanh, thủy ngân. Dự trữ nhiên liệu: 12 triệu
thùng. Đất nông nghiệp: 7%. Chăn nuôi: trâu bò 1,4 triệu, gà 2,5 triệu, dê 1,3
triệu, heo 600, cừu 1,9 triệu. Đánh cá: 210 tấn. Cung cấp điện: 16,1 tỷ Kwh.
Phân bố lao động và đóng góp vào Tổng sản lượng quốc gia: nông nghiệp 49,8%,
đóng góp 31%; công nghiệp 12,8%, đóng góp 29%; dịch vụ 37,4%, đóng góp 40%.
Tài chính và
an sinh: Đơn vị tiền tệ: Đồng Somoni
(tháng 9/2010: 4,3=1USD). Tổng sản lượng nội địa: 13,7 tỷ. Bình quân đầu người:
1.900. Tăng trưởng: 3,4%. Nhập khẩu: 2,9 triệu. Bạn hàng: Russia 21,2%, Trung
Quốc 17,2%, Kazakhstan 10,6%, Uzbekistan 9,6%, Azerbaijan 7,3%, Ukraine 5,2%,
Turkey 4%. Xuất khẩu: 1,1 tỷ. Bạn hàng: Thuỵ Điển 13,9%, Nga 13%, Turkey 12,2%,
Uzbekistan 9,4%, Hoa Kỳ 6,4%, Italy 5,3%, Iran 5,2%, Hy Lạp 4,2%. Du lịch:
không có số liệu. Ngân sách quốc gia: 1,2 triệu. Dự trữ ngoại tệ: 116 triệu. Dự
trữ vàng: 73.910 ozt. Nợ nước ngoài: 0,8 tỷ. Giá cả tiêu thụ: không có số liệu.
Vận chuyển: Đường xe lửa: 482km. Bằng xe hơi: 117,100 lượt xe, xe hơi cá nhân:
16.800. Bằng máy bay: bay 1 tỷ km, sân bay 13. Hải cảng: không có số liệu.
Truyền thông: Máy truyền hình: 328/1000 cư dân. Radio: 143/1000. Điện thoại: 4,2/100.
Internet: 10,1/100 người sử dụng. Sức khoẻ y tế: Tuổi thọ: nam 62,6 nữ 68,9.
Sinh xuất: 26,5/1000 cư dân. Tử xuất: 6,7/1000. Tăng dân số tự nhiên: 1,9%.
Chết trước tuổi trưởng thành: 39,8/1000 trẻ sơ sinh. Nhiểm bệnh AIDS: 0,3%.
Giáo dục: tuổi cưỡng bức đi học 7-15, biết đọc biết viết 99,7%, trung học 81%,
đại học 20%.
Tham gia tổ
chức quốc tế: Liên Hiệp Quốc (UN) và các tổ chức phụ thuộc của nó như Lương
nông Thế giới (FAO), Ngân hàng Thế giới (IBRD), Lao động Thế giới (ILO), Quỹ
tiền tệ Thế giới (IMF), và Y tế Thế giới (WHO). Các quốc gia độc lập vì Thịnh
vượng (CIS) và Hợp tác an ninh Châu Âu (OSCE).
A. Tiến trình phát triển.
Cư dân đến
định cư trong vùng khoảng thế kỷ 13 bởi người Kyrgyz. Nó bị Nga thôn tính năm
1864. Sau năm 1917, được mang danh là khu vực tự trị Kara- Kyrgyz. Tái tổ chức
1926, và là một Cộng hòa thành viên của Liên bang Xô viết năm 1936. Kyrgyzstan
tuyên bố độc lập ngày 31/8/1991, và trở thành quốc gia độc lập ngày 26/12/1991
khi Liên bang Xô viết sụp đổ. Tháng 5/1993, một Hiến pháp được thông qua. Tổng
thống Askar Akayev tái đắc cử ngày 24/12/1995, và tu chỉnh Hiến pháp ngày
10/2/1996, tăng thêm quyền hạn của tổng thống. Ngày 17/10/1998, bằng cuộc “trưng
cầu dân ý” tu chỉnh Hiến pháp khác, hạn chế thẩm quyền của Quốc hội và cho phép
tư nhân được quyền làm chủ sở hữu đất đai. Ngày 9/10/2000, Tổng thống Akayev
tái đắc cử lần thứ ba với nhiệm kỳ 5 năm.
Sự xâm nhập
vào vùng Kyrgyz của bạo loạn Hồi giáo, và các vụ giao tranh tại lưu vực Fergana
đã là mối quan tâm của các chính phủ vùng Trung Á nầy. Kyrgyzstan đã gia tăng
gấp ba ngân sách quốc phòng trong năm 2001 để chống lại quá khích Hồi giáo. Sự
hiện diện quân đội Hoa Kỳ tại Kyrgyzstan cũng tăng lên từ tháng 12/2001. Viện
dẫn chính quyền tham nhũng và lạm quyền trong việc giải tán Quốc hội để bầu cử
sớm, các cuộc biểu tình chống Akayev diển ra khắp nơi. Tòa án tối cao ra tuyên
bố cuộc bầu cử vừa rồi là không có giá trị, và chỉ định Kurmanbek Bakiyev làm Thủ
tướng và Quyền tổng thống. Akayev bị lưu đày sang Nga, và từ chức Tổng thống
trong tháng 4/2005. Cuộc bầu cử Tổng thống ngày 10/6/2005, nguyên Thủ tướng
Kurmanbek Bakiyev đắc cử sít sao trên 3 ứng viên khác.
Hiến pháp mới
ban hành ngày 8/11/2006, hạn chế quyền của Tổng thống. Nhưng ngày 15/1/2007,
Tổng thống Bakiyev ký tu chỉnh Hiến pháp phục hồi thêm nhiều quyền cho Tổng
thống. Ngày 11/5, Thủ tướng Almazbek Atambeyev được cứu sống sau một vụ đầu độc
ám hại ông ta. Hiến pháp mới được cử tri chấp nhận trong cuộc trưng cầu dân ý
ngày 21/10/2007. Và tại cuộc bầu cử Quốc hội ngày 16/12, đảng của Bakiyev chỉ
giành được đa số phiếu sít sao. Ngày 16/12, Igor Chudinov trở thành Thủ tướng. Kết
quả cuộc bầu cử tổng thống ngày 23/7/2009, Bakiyev đắc cử với 76% phiếu bầu,
nhưng quan sát viên quốc tế cho đó là một cuộc bầu cử gian lận. Ngày 7/4/2010,
Bakiyev bị truất quyền bởi các đảng đối lập sau vụ xung đột giữa lực lượng an
ninh và những người biểu tình làm chết 85 người.
Nguyên Bộ
trưởng Ngoại giao Roza Otunbayeva được chỉ định cầm đầu chính quyền lâm thời.
Xung đột sắc tộc giữa người Kyrgyz chiếm đa số và thiểu số người Uzbeks trong
các thành phố phía Nam Osh và Jalalaba khiến hơn 2.000 người thiệt mạng. Trong
cuộc trưng cầu dân ý ngày 27/6/2010, củ tri chấp nhận Hiến pháp mới. Ngày 3/7,
Roza Otunbayeva tuyên thệ nhậm chức chính quyền chuyển tiếp. Cuộc bầu cử Quốc
hội dự định sẽ diễn ra ngày 10/10/2010.
B. Kyrgyzstan ngày nay.
Hiến pháp và
chính quyền: Tu chính Hiến pháp ngày 30/1/1994, chấp nhận cho Akayev giữ chức
Tổng thống đến hết nhiệm kỳ. Và tu chỉnh Hiến pháp ngày 23 và 23/10/1994, thành
lập Quốc hội mới gồm Viện lập pháp có 35 đại biểu do dân bầu trực tiếp, và Viện
đại biểu Nhân dân có 40 nghị sĩ đựơc bầu lên từ các vùng lảnh thỗ. Tu chỉnh
Hiến pháp ngày 10/2/1996, theo đó Tổng thống có quyền chỉ định các Bộ trưởng,
không cần tham khảo ý kiến từ Quốc hội, ngoại chức trừ Thủ tướng. Tu chỉnh Hiến
pháp tháng 2/2003, thay đổi cơ cấu Quốc hội còn lại một viện duy nhất, và tăng
số đại biểu lên thành 90. Hiến pháp mới thông qua ngày 8/11/2006, chỉ rõ đảng
nào chiếm đa số ghế tại Quốc hội thì được quyền thành lập chính phủ. Tuy nhiên,
tu chỉnh Hiến pháp trong tháng 1/2007, phục hồi quyền thành lập chính phủ của
Tổng thống. Hiến pháp mới đưa ra “trưng cầu dân ý” ngày 22/10/2007, cử tri ủng
hộ một cuộc cải cách sâu rộng gồm tăng quyền hạn cho Quốc hội, thay đổi quy
trình và hệ thống bầu cử Quốc hội. Tổng thống được bầu trực tiếp, có thể được tái
bầu với nhiệm kỳ 5 năm.
Cư dân và
lãnh thổ: Con người: Dân số 5.508.000, dưới 15 tuổi 29,4%, trên 65 tuổi 5,5%.
Mật độ dân cư: 28,7 người/km2. Thành phố: 34,6%. Sắc tộc: Kyrgyz 65%, Uzbek
14%, Nga 13%, Ukrainian 3%, German 2%. Ngôn ngữ: Kyrgyz, Russian (chính),
Uzbek. Tôn giáo: Hồi giáo 75%, Chính thống giáo Nga 20%. Đất đai: Tổng diện
tích: 199.951 km2. Diện tích đất: 191.801 km2. Địa điểm: ở vùng Trung Á. Quốc
gia láng giềng: Kazakhstan phía bắc. Uzbekistan phía tây. Trung Quốc phía đông.
Tajikistan phía nam. Đia thế: Kyrgyzstan được bao bọc bởi núi Tiên Shan và
Pamir, độ cao trung bình 8.020 ft. Hồ Issyk-Kul rộng lớn phía đông bắc sâu tới
1.609 mét so với mặt nước biển trung bình. Thủ đô: Bishkek, với 854.000 cư dân.
Chính trị và
kinh tế: Loại chính quyền: chính quyền chuyễn tiếp. Nguyên thủ quốc gia và cầm
đầu chính phủ: Tổng thống Roza Otunbayeva, sinh 23/8/1950, nhậm chức 3/7/2010.
Chính quyền địa phương: 7 khu vực, 1 thành phố thủ đô. Ngân sách quốc phòng: 43
triệu. Quân đội chính quy: 10.900. Kinh tế: Công nghiệp: máy móc nhỏ, hàng dệt,
chế biến thực phẩm, ciment, giày dép, gổ, đồ dùng gia đình, đông lạnh, điện xe
hơi. Nông sản: sợi bông, thuốc lá, khoai tây, rau quả, trái cây, nho. Tài
nguyên: thủy điện, vàng, kim loại quý hiếm, dầu lửa, khí đốt, than đá, thủy
ngân, chì, nhôm. Dự trữ nhiên liệu: 40 triệu thùng. Đất nông nghiệp: 7%. Chăn
nuôi: trâu bò 1,1 triệu, gà 4,3 triệu, dê 850.000, heo 79.000, cừu 3,2 triệu.
Đánh cá: 27 tấn. Cung cấp điện: 16 tỷ Kwh. Phân bố lao động và đóng góp vào
Tổng sản lượng quốc gia: nông nghiệp 48%, đóng góp 39%; công nghiệp 12,5%, đóng
góp 23%; dịch vụ 39,5%, đóng góp 38%.
Tài chính và
an sinh: Đơn vị tiền tệ: Đồng Som (tháng 9/2010: 46,9=1USD). Tổng sản lượng nội
địa: 12,1 tỷ. Bình quân đầu người: 2,200. Tăng trưởng: 2,3%. Nhập khẩu: 2,8 tỷ.
Bạn hàng: Trung Quốc 56,8%, Nga 15,1%, Kazakhstan 8,1%. Xuất khẩu: 1,7 tỷ. Bạn
hàng: United Arab Emirates 35,8%, Nga 20,2%, Kazakhstan 13,1%, Trung Quốc
11,8%. Du lịch: 515 triệu. Ngân sách quốc gia: 1,4 tỷ. Dự trữ ngoại tệ: 952,9
triệu. Dự trữ vàng: 83.090 ozt. Nợ nước ngoài: 2,0 tỷ. Giá cả tiêu thụ: tăng 6,9%.
Vận chuyển: Đường xe lửa: 469km. Bằng xe hơi: 201.600 lượt xe, xe hơi cá nhân:
không có số liệu. Bằng máy bay: bay 417,8 triệu km, sân bay 18. Hải cảng: 1-
Ysyk-Kol. Truyền thông: Máy truyền hình 49/1000 cư dân. Radio 113/1000. Điện
thoại: 9,1/100. Internet: 40/100 người sử dụng. Sức khoẻ y tế: Tuổi thọ: nam
65,7, nữ 73,9. Sinh xuất: 23,6/1000 cư dân. Tử xuất: 6,9/1000. Tăng dân số tự
nhiên: 1,6%. Chết trước tuổi trưởng thành: 30,3/1000 trẻ sơ sinh. Nhiểm bệnh
AIDS: 0,1%. Giáo dục: tuổi cưỡng bức đi học 7-15, biết đọc biết viết 99,3%,
trung học 81%, đại học 20%.
Tham gia tổ
chức quốc tế: Liên Hiệp Quốc (UN) và các tổ chức phụ thuộc của nó như Lương
nông Thế giới (FAO), Ngân hàng Thế giới (IBRD), Lao động Thế giới (ILO), Quỹ
tiền tệ Thế giới (IMF), và Y tế Thế giới (WHO). Các quốc gia độc lập vì Thịnh
vượng (CIS). Hợp tác an ninh Châu Âu (OSCE).
A. Tiến trình phát triển.
Là một trong
những quốc gia cổ nhất của thế giới, Mông Cổ đạt tới đỉnh cao quyền lực của nó
vào thế kỷ 13, khi Genghis Khan và các người
kế vị ông ta xâm chiếm toàn bộ Trung Quốc mở rộng vùng thống trị về phía
Tây đến tận lục địa Châu Âu như Nga, Hungary, Balan .v.v. Mông Cổ là đế quốc
trực tiếp cai trị lãnh thổ lớn nhất lịch sử loài người vào thế kỷ 13 và 14.
Trong những thế kỷ sau đó đế quốc tan rã, và Mông Cổ trở thành một tỉnh của
Trung Quốc dưới triều nhà Thanh (Mản châu). Cuộc cách mạng năm 1911 tại Trung Quốc,
Mông Cổ với sự hậu thuẫn của Nga tuyên bố độc lập. Chính quyền Cộng sản được
thành lập ngày 11/7/1921. Cho đến năm 1990, quyền lực hoàn toàn nằm trong tay
đảng Cộng sản, gọi là đảng Nhân dân Cách mạng Mongolia (MPRP).
Cho đến khi
xuất hiện đảng đối lập đầu tiên là đảng Dân chủ Mongolia (MDP), thành lập tháng
12/1989, và tổ chức Đại hội vào tháng 2/1990. Việc một đảng mới xuất hiện, nó
ngầm ý cho người ta thấy rằng sẽ có một cái gì đó sắp xẩy ra tại đất nước Cộng
sản nghèo đói nầy. Sau cuộc biểu tình đập phá vì đói, vào ngày 12/3/1990, Bộ
chính trị đảng Cộng sản từ chức, và đảng đối lập nắm quyền lực một cách hợp
pháp. Đảng Cộng sản nhanh chóng tái khôi phục, giành lại quyền lực trong cuộc
bầu cử tháng 7. Hiến pháp mới có hiệu lực từ ngày 12/2/1992. Liên minh Dân chủ
chiến thắng trong cuộc bầu cử Quốc hội ngày 30/6/1996. Natsagiyn Bagabandi
nguyên đảng viên đảng cộng sản đắc cử Tổng thống ngày 18/5/1997. Cuộc khủng
hoảng chính trị bắt đầu kéo dài.
Ngày
2/10/1998, bạo loạn vượt ngoài tầm kiểm soát giết chết Thủ tướng Sanjaasuregign
Zorig. Một thành viên trong nội các trở thành thủ tướng. Các đảng viên đảng
cộng sản cũ chiếm 72/76 ghế trong cuộc bầu cử Quốc hội vào ngày 2/7/2000.
Bagabandi cũng được tái bầu làm Tổng thống vào ngày 20/5/2001. Cuộc bầu cử 76 đại
biểu Quốc hội ngày 27/6/2004, đảng Cách mạng Nhân dân Mongolia (MPRP) dẫn đầu
chiếm 36 ghế, Liên minh Dân chủ Tổ quốc chiếm 34 ghế. Đảng MPRP phải thỏa hiệp
với 4 đại biểu độc lập để thành lập chính phủ. Và cuộc ầu cử Tổng thống ngày
22/5/2005, Nambaryn Enkhbayar của đảng MPRP đắc cử với 53,4% phiếu bầu, ứng viên Mendsaikhany
Enkhsaikhan của đảng Dân chủ có 19,7% phiếu bầu.
Ngày 21/11,
Mông Cổ gởi quân cùng với Hoa Kỳ tham gia cuộc chiến ở Afghanistan. Ngày
22/10/2007, Tổng thống Bush, trở thành vị Tổng thống tại chức đầu tiên thăm
viếng Mông Cổ, và đồng ý viện trợ không hoàn lại cho Mông Cổ 285 triệu USD. Sau
cuộc bầu cử Quốc hội ngày 29/6/2008, đảng Nhân dân Cách mạng đương quyền giành
chiến thắng, và bạo loạn lại nổi lên. Trong cuộc bầu cử tổng thống ngày 24/5/2009,
ứng viên đảng Dân chủ, nguyên Thủ tướng (năm 1998, 2004-2006) đánh bại đương
kim tổng thống Nambaryn Enkhbayar của đảng Cách mạng Nhân dân Mongolia (MPRP).
B. Mông cổ ngày nay.
Hiến pháp và
chính quyền: Hiến pháp mới ngày 12/2/1992 xóa bỏ cụm từ Dân chủ Nhân dân, và
xác nhận Mông Cỗ là một quốc gia Dân chủ, theo kinh tế thị trường, bảo đảm tự
do trong phát biểu chính kiến. Tổng thống do dân bầu trực tiếp bằng phổ thông
đầu phiếu, với nhiệm kỳ 4 năm, có thể tái bầu. Tu chỉnh Hiến pháp tháng 6/1992,
chỉ rõ Quốc hội có một viện với 76 đại biểu. Quốc hội bầu chọn Thủ tướng.
Cư dân và
lãnh thổ: Con người: Dân số: 3.086.000, dưới 15 tuổi 27,7%, trên 65 tuổi 4%.
Mật độ dân cư: 2 người/km2. Thành phố: 61,5%. Sắc tộc: Mongol 95%, Turkic,
Tungusic 5%. Ngôn ngữ: Khalkha Mongol (chính), Turkic, Russian. Tôn giáo: Phật
giáo Tibetan 50%, Thiên chúa giáo 6%, Hôìi giáo 4%, không tôn giáo 40%. Đất
đai: Tổng diện tích: 1.564.116 km2. Diện tích đất: 1.553.556 km2. Địa điểm: ở
phía đông Trung Á. Quốc gia láng giềng: Liên bang Nga phía bắc. Trung Quốc phía
đông, tây và nam. Địa thế: Hầu hết là cao nguyên với núi non trùng điệp, hồ
nước mặn rộng, đồng cỏ mênh mông. Vùng đất khô ở phía nam là một phần của sa
mạc Gobi. Thủ đô: Ulaanbaatar, với 949.000 cư dân.
Chính trị và
kinh tế: Loại chính quyền: Cộng hòa. Nguyên thủ quốc gia: Tổng thống
Tsakhiagiin Elbegdorj, sinh 30/3/1963, nhậm chức 18/6/2009. Thủ tướng chính
phủ: Sukhbaatar Batbold, sinh 1963, nhậm chức 29/10/2009. Chính quyền địa
phương: 18 tỉnh, 3 khu vực tự trị. Ngân sách quốc phòng: 51 triệu. Quân đội
chính quy: 10.000. Kinh tế: Công nghiệp: vật liệu xây dựng, khai thác mỏ, lọc
dầu, chế biến thực phẩm và thức uống. Nông sản: lúa mỳ, lúa mạch, bắp, khoai
tây, và thức ăn cho gia súc. Tài nguyên: dầu lửa, than đá, muối acid, đồng, kim
loại trắng, thiếc, kim loại nặng, vàng, bạc, sắt. Dự trử nhiên liệu: không có
số liệu. Đất nông nghiệp: 1%. Chăn nuôi: trâu bò 2,2 triệu, gà 31.000, dê 15,5
triệu, heo 7.000, cừu 14,8 triệu. Đánh cá: 289 tấn. Cung cấp điện: 3,8 tỷ Kwh.
Phân bố lao động và đóng góp vào Tổng sản lượng quốc gia: nông nghiệp 34%, đóng
góp 21%; công nghiệp 5%, đóng góp 21%; dịch vụ 61%, đóng góp 58%.
Tài chính và
an sinh: Đơn vị tiền tệ: Đồng Tugrik
(tháng 9/2010: 1.317=1USD). Tổng sản lượng nội địa: 9,4 tỷ. Bình quân đầu
người: 3.100 USD. Tăng trưởng: -1%. Nhập khẩu: 2,1 tỷ. Bạn hàng: Nga 34,4%,
Trung Quốc 20,1%, South Korea 12,4%, Japan 6,2%, Germany 4,3%, Hồng Kông 4,1%.
Xuất khẩu: 1,9 tỷ. Bạn hàng: Trung Quốc 41,4%, Hoa Kỳ 31,7%. Russia 9,2%, South
Korea 4,2%. Du lịch: 230 triệu. Ngân
sách quốc gia: 1,6 tỷ. Dự trữ ngoại tệ: 825 triệu. Dự trữ vàng: 29.945 ozt. Nợ
nước ngoài: 1,2 tỷ. Giá cả tiêu thụ: tăng 6,3%. Vận chuyển: Đường xe lửa:
1.810. Bằng xe hơi: 21.000 lượt xe, xe hơi cá nhân: 27.000. Bằng máy bay: bay
734,8 triệu km, sân bay 13. Truyền thông: máy truyền hình: 58/1000 cư dân.
Radio: 142/1000. Điện thoại: 7,1/100. Internet: 13,1/100 người sử dụng. Sức
khoẻ y tế: Tuổi thọ: nam 65,5, nữ 70,5. Sinh xuất: 21/1000 cư dân. Tử xuất: 6,1/1000.
Tăng dân số tự nhiên: 1,5%. Chết trước tuổi trưởng thành: 38,6/1000 trẻ sơ
sinh. Nhiểm bệnh AIDS: 0,1%. Giáo dục: tuổi cưỡng bức đi học 7-15, biết đọc
biết viết 97,3%, trung học 59%, đại học 25%.
Tham gia tổ
chức quốc tế: Liên Hiệp Quốc (UN) và các tổ chức phụ thuộc của nó như Luơng
nông Thế giới (FAO), Ngân hàng Thế giới (IBRD), Lao động Thế giới (ILO), Quỷ
tiền tệ Thế giới (IMF), Hàng hải Thế giới (IMO), Y tế Thế giới (WHO), và Thương
mại Thế giới (WtrO).
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét